Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Tâm Hướng (1923 – 1997)

01/11/201421:42(Xem: 6080)
Hòa Thượng Thích Tâm Hướng (1923 – 1997)



HT Thich Tam Huong
Sáng ngày 18.01 Giáp Ngọ (17.02.2014) tại Tổ đình Vạn Phước, thành phố Huế, Tăng chúng bổn tự đã trang nghiêm cử hành lễ tưởng niệm húy nhật Hòa thượng Thích Tâm Hướng (1923 - 1997).

Quang lâm chứng minh buổi lễ có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế, trú trì Quốc Tự Diệu Đế, chùa Tra Am, Lam Sơn và Bạch Vân - Huế; chư Tôn đức Tăng, Ni và đông đảo Phật tử các giới tại Thừa Thiên Huế đã đến dự và dâng hương đảnh lễ.




Hoà thượng là con thứ 6 trong một gia đình 7 anh chị em. Năm Ngài 10 tuổi thì Thân phụ đã sớm từ trần. Mẹ một mình tần tảo nuôi 7 người con dại. Cảnh gia đình như vậy đã gây một ấn tượng khá sâu đậm trong tâm trí Ngài. Mặc dù Ngài được Thúc phụ là cụ Tiến sĩ Dương Xuân Phán mến thương giáo dưỡng, dạy cho Ngài học chữ Nho từ khi lên 11 tuổi. Năm 16 tuổi, Ngài sớm nhận thức được thế sự là vô thường, cuộc đời là bể khổ, Ngài đã tự quyết định và xin phép Mẹ, các anh chị được vào chùa, xa rời thế tục.

Ngài đã đến chùa Vạn Phước thuộc thôn Bình An, xã Thuỷ Xuân vào ngày đầu tháng 9 năm Mậu Dần (23/10/1938) đảnh lễ xin xuất gia học đạo với Hoà thượng Giác Hạnh. Với bản chất nhu hoà, tính tình thuần hậu, cần mẫn hầu Thầy học đạo, sau 2 năm hành điệu nhiệt thành, nhuần thấm nếp Thiền môn, ngày 08 tháng 02 năm Canh Thìn (1940), Ngài được Hoà thượng Bổn sư truyền trao Sa-di thập giới.

Năm 1942, Ngài được tòng học ở Phật học Đường Báo Quốc cho đến năm 1945 gặp chính biến, trường phải tạm thời gián đoạn. Với Ngài, những khi học tập ở trường cũng như thời gian đảm trách việc chùa, lúc nào Ngài cũng với tâm tinh cần không quản khó khăn cực nhọc, Ngài được các bậc Trưởng thượng rất thương yêu, chư pháp hữu huynh đệ đều quí mến. Bất cứ một công việc gì được giao phó Ngài cũng rất hoan hỉ, đem hết kỉnh tâm hầu Thầy mà chu toàn mọi sự, nên rất được Hoà thượng Bổn sư tin tưởng thương mến. Ngài đã là một chú Sa di đức hạnh, bên trong thì rất thúc liễm, bên ngoài thì vui hoà nhu thuận. Đến năm 1949 Ngài được Hoà thượng Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn chùa Hưng Khánh tỉnh Bình Định do ngài Hoà thượng Chí Bảo làm Đường đầu, Hoà thượng Giác Hạnh làm Yết-ma, Hoà thượng Vĩnh Thừa làm Giáo thọ, giới đàn ấy được Hoà thượng Phước Huệ (Thập Tháp) Chứng minh đạo sư.

Năm 1954 Ngài được Hoà thượng Bổn sư cử làm Tri sự chùa Vạn Phước. Thời gian quản thủ việc chùa, Ngài đã cùng với Hoà thượng Bổn sư đảm nhận trọng trách Đại trùng tu chùa, kéo dài suốt 3 năm. Ngôi Vạn Phước trang nghiêm được khánh thành vào ngày 08 tháng 02 năm Đinh Dậu (1957).

Năm 1965, lúc Đại lão Hoà thượng Bổn sư của Ngài 85 tuổi đã tiến cử Ngài làm Trú trì chùa Vạn Phước, kế nhiệm trú trì của sư huynh là Hoà thượng Nguyên Quang tự Tâm Hảo hiệu Huyền Khánh đã viên tịch từ năm 1953.

Năm 1967, thể theo thỉnh nguyện khẩn thiết của chư Phật tử chùa Tuệ Quang tại Đô thành Sài Gòn, Đại lão Hoà thượng đã cử Ngài vào chăm lo Phật sự, hướng dẫn tín đồ ở chùa Tuệ Quang. Khi vào Sài Gòn, lúc ra Huế Ngài đã hai vai gánh nặng. Phụng hành giáo chỉ của Hoà thượng Bổn sư, Ngài đã từng bước tu sửa và đổi tên ngôi chùa Tuệ Quang thành chùa Vạn Đức năm 1967.

Sau đó, Ngài cung thỉnh Đại lão Hoà thượng Bổn sư vào cử hành lễ an vị. Trong lễ này, tín đồ đệ tử của Đại lão Hoà thượng đến tham dự rất đông. Mọi người thấy ngôi chùa quá thấp với mái ngói cũ dột, nên đã phát tâm thỉnh cầu Đại lão Hoà thượng cho thành lập Ban Trùng tu. Đại lão Hoà thượng Bổn sư đã cử Ngài làm Trưởng ban Trùng tu.

Sau Tết Mậu Thân 1968, công cuộc trùng tu được tiến hành theo đồ án của Kiến trúc sư Nguyễn Kỳ thiết kế và Kỹ sư Nguyễn Tấn Thọ thực hiện. Sau 3 năm thi công, ngôi chùa được hoàn tất. Đại lễ khánh thành được cử hành vào năm 1970. Trong dịp này, được sự gợi ý của Hoà thượng Thích Trí Quang và sự chấp thuận của Đại lão Hoà thượng Bổn sư, Ngài đã đổi tên chùa Vạn Đức thành chùa Vạn Phước.

Song song với việc Đại trùng tu các chùa, Hoà thượng đã chú Tượng, đúc Chuông, tiếp Tăng độ chúng. Mặc dù đảm trách nhiều Phật sự nặng nề trong cả hai Chùa, nhưng Hoà thượng vẫn không quên hỗ trợ nhiều Phật sự của Giáo hội, nhất là việc giáo dục đào tạo Tăng tài, từ các Trường Cơ bản Phật học của một số Tỉnh thành cho đến Trường Cao cấp Phật học. Ngài cũng rất quan tâm đến công việc Từ thiện xã hội, cho thành lập Tuệ Tĩnh Đường tại chùa Vạn Phước Sài Gòn để cứu giúp những bệnh nhân nghèo khổ. Vì Phật sự phải rời xa Huế, song tấm lòng của Hoà thượng bao giờ cũng hướng về Phật giáo Thừa Thiên – Huế, hướng về chư Tôn Hoà thượng, chư Tăng Ni, về các Phật sự ở Huế. Đạo tình của Hoà thượng thật bao la và trách nhiệm với tổ chức Giáo hội thì rất chu toàn, không từ nan một Phật sự nào khi được giao phó.
 
Năm 1979, Ngài là uỷ viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh. Ngài cũng đã từng làm tôn chứng cho nhiều Đại giới đàn tại chùa Ấn Quang v.v...

Năm 1981, Ngài được cử làm Chánh Đại diện Phật giáo quận 11 thành phố Hồ Chí Minh. Trong Đại hội kỳ II GHPGVN tại Thủ đô Hà Nội, Ngài được sung vào chức vụ Phó ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN kiêm Trưởng ban Nghi lễ Thành hội Phật giáo TP.HCM. Ngài được Hội đồng Chứng Minh TW GHPGVN tấn phong lên hàng giáo phẩm Hoà thượng.

Suốt cuộc đời tu tập và hoằng hoá, Ngài là tấm gương ngời sáng cho Tăng Ni Phật tử. Tu hành thì giới luật tinh nghiêm, nhiếp hoá chúng sanh thì bằng tứ vô lượng tâm.

Ngài chân thật sống bằng giới luật, bằng kính tâm, bằng từ bi tâm. Ngài là hiện thân của Hiếu hạnh. Hình ảnh tôn thờ Bổn sư của Hoà thượng đã làm xúc động những ai nghe và thấy hình ảnh hầu Thầy của Hoà thượng. Đại lão Hoà thượng Bổn sư bệnh là Ngài đau, Đại lão Hoà thượng Bổn sư chưa thời (ăn) là Hoà thượng không nuốt xuống cơm mà chỉ chấp tay quỳ gối bên cạnh Đại lão Hoà thượng Bổn sư.

Từ hiếu tâm ấy nên lúc nào đối với chư Tôn đức Trưởng thượng, Hoà thượng cũng đầy kính tâm, luôn hầu hạ thăm viếng. Với Pháp lữ, Hoà thượng luôn trân quí, tôn trọng. Với hàng hậu tấn khi nào Hoà thượng cũng lân mẫn ưu ái. Với Phật tử Hoà thượng là người Cha lành luôn vỗ về, an ủi, tuỳ thuận.

Hoà thượng sống thật đơn giản, ngôn từ thì bình dị mà tấm lòng thì thật sâu thẳm bao la, hết lòng phụng đạo giúp đời. Lòng bao dung, tính hiền hoà cũng chính là đức nhiếp chúng của Hoà thượng, nhiều đệ tử xuất gia của Hoà thượng đã trưởng thành, trụ vững và có nhiều đóng góp Phật sự như Thượng toạ Thích Phước Trí, Thích Phước Toàn, Thích Phước Hoàn, Thích Phước Chơn và nhiều vị khác đã đảm trách trú trì nhiều nơi các chùa trong Nam.

Đối với Tổ đình Vạn Phước – Huế và chùa Vạn Phước – Sài Gòn, Hoà thượng cũng ổn định nhân sự, cử Pháp đệ là Hoà thượng Thích Tâm Thọ làm Trú trì Tổ đình Vạn Phước – Huế, và Trưởng pháp tử Hoà thượng Thích Phước Trí làm Trú trì chùa Vạn Phước – Sài Gòn.

Tháng 3 năm Bính Tý (1996) Hoà thượng về thăm Huế, như linh cảm về sự ra đi của mình không còn xa nên Ngài đã về quê thăm lại lần cuối, đốt hương tưởng niệm trước mộ phần thân thuộc thương kính, Hoà thượng đã tổ chức trai đàn chẩn tế cầu siêu độ chư tiên linh.

Mùa xuân Đinh Sửu năm nay, Hoà thượng rất hoan hỷ đón Xuân, vui Tết một cách thanh thản khinh an như Hoà thượng biết mình sắp trút gánh nặng của thân tứ đại vô thường để trở về cảnh giới Cực Lạc Tây phương.

Hoà thượng đã an nhiên thị tịch vào lúc 1 giờ 30 phút, ngày 19 tháng Giêng năm Đinh Sửu (1997) tại chùa Vạn Phước – Sài Gòn. Hoà thượng trụ thế 74 năm, 48 Hạ lạp.

Ghi nhận hình ảnh buổi lễ

 

Tiền đường Tổ đình Vạn Phước - Huế





Đại hùng Bảo điện



Bàn thờ Tổ



Cung đón Trưởng lão hòa thượng Phó Pháp chủ











Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương niêm hương cầu nguyện



Hòa thượng Thích Tâm Thọ, trú trì Tổ đình Vạn Phước - Huế



Chư Tôn đức cử hành Lễ Tưởng niệm









 
Tác giả bài viết: Tin, ảnh: Nguyễn Huy





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 12633)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 9590)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 6987)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 3913)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 6926)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 19198)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 10479)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 5723)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 10578)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
09/04/2013(Xem: 8529)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]