Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài mẫu chuyện để tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thiền Tâm.

19/09/201003:05(Xem: 6879)
Vài mẫu chuyện để tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thiền Tâm.

htthichthientam
Vài mẫu chuyện để tưởng niệm

Cố Hoà Thượng Thiền Tâm.

Thoại Hoa.

 

Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy. Mới chừng mười tuổi, khi bắt đầu hiểu biết hơn về đạo, tôi đã muốn xin quy y. Tôi thường theo cha tôi đi vào tổ đình Ấn Quang, các chùa Xá Lợi, Dược Sư, Từ Nghiêm, và rất nhiều thầy đề nghị quy y cho tôi, vì các thầy đều quen biết cha tôi. Rất lạ là hồi đó, tuy còn bé, nhưng tôi rất bướng bỉnh, không chịu thầy nào làm Bổn Sư mình. Tôi khăng khăng nói là tôi đã biết trước thầy tôi sẽ là ai.

Khi lớn lên, tôi thường tới lui Cô Nhi Viện Diệu Quang ở Phú Lâm để giúp các sư cô chăm sóc trẻ em mồ côi. Cho đến khi tôi hai mươi tuổi, một ngày nọ, trên đường từ Phú Lâm về, xe tôi chạy ngang An Dưỡng Địa, Lò Hoả Táng, cạnh Cô Nhi Viện, tôi nhìn vào thấy có ba cái cốc. Tôi ngạc nhiên không biết sao ở chốn này lại có người ở. Không hiểu do điều gì xui khiến, tôi đòi dừng xe, mạnh dạn bước vào, gỏ cửa một trong ba cái cốc tịnh thất. Một vị sư ra mở cửa. Tôi chưa bao giờ gặp vị đó, và rất ngạc nhiên thấy nhà sư vui mừng trên nét mặt. Tôi đứng sửng sốt, hai chân bám xuống đất, không dám cử động, nói phều-phào qua màng lệ : « Thôi đúng rồi, nay con đã tìm ra thầy con rồi. Bạch Thầy, bao nhiêu năm nay con đi tìm Thầy. Thầy có chịu làm Bổn Sư của con không ? » Thầy mỉm cười trả lời : « Thầy đã chờ con từ lâu rồi. Ngày mai con đem hoa quả lên đây, thầy sẽ quy y cho con » Vị sư đó là thầy Thiền Tâm.

Tôi về thưa với cha tôi. Cha tôi không quen Thầy, nhưng cũng nhận lời, cho người mang hoa quả tới. Sau khi làm lễ, Thầy đặt cho tôi pháp danh là Thoại Hoa. Tôi rất thích pháp danh đó, tuy tôi không hiểu rõ ý nghĩa của nó. Hồi đó tôi còn nhút nhát, cũng không dám hỏi Thầy. Mãi mấy chục năm sau, trong một dịp đi hành hương bên Ấn Độ, theo vết con đường tu hành của đức Phật Thích Ca, tôi mới được Hòa Thượng Huyền Vi giải nghĩa cho. Thầy Huyền Vi nói : « Chà, cô này có pháp danh rất hay. Để thầy giảng nghĩa cho mọi người nghe : Hoàng hậu Ma Gia một buổi sáng ấm nắng đi dạo chơi trong vườn Lâm Tỳ Ni, bỗng thấy một đóa linh hoa thoại vừa mới trổ. Hoàng hậu tự nhủ : « Hoa này rất là hiếm, ít người được thấy, vì vạn năm mới nở một lần, và chỉ nở khi có điềm lành ». Bà hài lòng với tay hái hoa, thì ngay lúc đó chuyển bụng sanh ra thái tử Tất Đạt Đa. Thầy của cô đặt cho cô tên Thoại Hoa là muốn nhắc nhở tới sự tích này »

Sau ngày phát nguyện quy y, mổi lần đi lên Cô Nhi Viện Diệu Quang, tôi không quên ghé thăm thầy Thiền Tâm, và lần nào thầy cũng dành nhiều thì giờ cho tôi. Có điều lạ là Thầy không bao giờ đến thăm cha tôi, và cha tôi cũng không bao giờ đến gặp Thầy. Tôi nhớ có một lần Thầy bảo tôi : « Con đã tu nhiều kiếp rồi. Ráng cuộc đời này làm công quả cho nhiều. Nhưng Thầy và con rồi cũng ít được gặp nhau. Sau này Thầy viên-tịch rồi thì con ráng tìm đệ tử của Thầy mà tiếp tục tu cho đắc đạo »

Một ngày nọ, cũng như mọi kỳ, tôi ghé thăm Thầy. Vừa mở cửa ra, Thầy liền thốt lên : « Hôm nay con lên từ giả Thầy phải không ? » Tôi hết sức ngạc nhiên, sửng sốt hỏi lại : « Sao thầy nói con đến từ giả Thầy ? » Thầy hiền từ nhìn tôi mỉm cười : « Thầy biết con đi du học xứ ngoài, hôm nay con lên thăm Thầy lần cuối » Đúng vậy, tôi đến từ giả Thầy để đi xuất ngoại du học. 

Tôi ra đi từ năm 1966. Vùi đầu vào sách vở, ở xứ người, tôi không có dịp liên lạc với Thầy vì tôi nghĩ không biết trong thư từ viết gì cho một vị xuất gia. Hơn nửa, tôi đoán Thầy cũng bận nhiều, đâu có thì giờ viết thư dạy bảo cho tôi. Rồi ngày tháng trôi qua, đến năm 1990, tôi được môt người quen cho biết Thầy Như Thông bên Mỷ là môt đệ tử của Thầy Thiền Tâm. Tôi mừng quá tìm liên lạc với Thầy Như Thông. Thầy Như Thông không ngần ngại phí tổn thời giờ đã viết thư rất nhiều về Phật pháp cho tôi.

Nhiều năm sau, một ngày nọ, tôi nằm chiêm bao, thấy Thầy Thiền Tâm mặc áo tràng rộng màu trắng, từ xa đi đến, rồi quay lưng đi trong cánh rừng đầy sương mù. Tôi chợt thức-dậy. Linh tính cho tôi biết có điềm không lành sẽ tới. Thật vậy, ít ngày sau tôi nhận được thư thầy Như Thông báo tin Sư Phụ tôi viên tịch, đúng vào ngày báo trong giấc mộng. Bổn Sư tôi viên-tịch vào ngày 16 /12/ 1992, nhằm ngày ta là 21 tháng 11 năm Nhâm Thân.

Năm 2001, tôi về thăm quê nhà. Thầy Như Thông đã về Việt Nam trước đó môt năm. Tôi tuy trao đổi nhiều thư từ, nhưng chưa bao giờ gặp Thầy Như Thông. Từ Sài Gòn, tôi gọi điện thoại đến nhà Thầy Như Thông, báo tin tôi từ xứ ngoài về muốn nói chuyện với Thầy. Bên kia đầu giây trả lời : « Thầy không có ở đây » Tôi bâng-khuâng hỏi lại : « Thầy không có ở đây, vậy Thầy ở đâu ? » Bên kia đầu giây yên lặng. Tôi có linh tính thật lạ lùng : « Thầy viên-tịch rồi phải không ? Bên đầu giây kia hỏi : « Sao Cô biết ? » Tôi trả lời : « Thầy viên-tịch ngày đó giờ đó phải không ? ». Bên kia trả lời : « Đúng vậy, y như Cô nói, ngày giờ không sai » Tôi nói tiếp : « Thầy có về báo mộng cho tôi biết ». Thật ra kỳ này, tôi cũng được Thầy Thiền Tâm báo trong mộng. Lúc đó tôi đang ở một khách sạn ngoài Huế. Cũng như lần trước cách đây mười năm, tôi thấy trong mộng Sư Phụ tôi đi tới cùng Thầy Như Thông, rồi hai người quay lưng đi ra xa trong màn sương mù dầy đặc. Tôi thức dậy, biết đây là điềm xấu. Tôi buồn bả ra nhìn cửa sổ xuống sông Hương, mặt trăng rằm to như cái mâm tròn thật đẹp nằm lửng lờ trên mặt nước lung linh, tuyệt vời. Hôm đó là ngày rằm tháng ba năm Nhâm Ngọ, ngày tiết Thanh Minh. Lúc đó là 5 giờ sáng.

Nhiều người đồn rằng Thầy tôi có huệ nhãn. Tôi kể ra đây một trong nhiều chuyện rất lạ về Thầy tôi. Hồi Thầy còn ở An-Dưỡng-Địa, Phú Lâm, có môt hôm, sau khi công phu chiều với đại chúng, Thầy bảo : « Hôm nay chúng con cùng hộ niệm, cầu siêu với Thầy, vì mấy ngày nay Thầy thấy có những vong hồn uất tử lai vãng quanh chùa. Xong lễ, các thầy trẻ tuổi bảo nhau :« Thầy mình sao hôm nay nói gì lạ quá, có vẻ tâm thần không được bình thường ». Ba ngày sau, có hai chiếc xe đò đầy khách và một chiếc xe tư nhân cũng đầy người đụng nhau trước cửa chùa, người trên ba xe không môt ai sống sót. Thì ra Thầy đả linh đoán được chuyện này từ nhiều ngày trước. Đại chúng trong chùa ai cũng vừa sợ vừa thầm phục Thầy.

 

NAM-MÔ CHỨNG-MINH SƯ BỒ TÁT MA-HA TÁT.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 4349)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 3866)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 4385)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 11464)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 4366)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 5912)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 4866)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 5704)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 4836)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4854)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567