Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Bích Nguyên (1898-1987)

14/06/201021:10(Xem: 5983)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên (1898-1987)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

 Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.

 Năm 1941, Hòa Thượng vào hóa duyên tại Tổ đình Linh Quang ở thành phố Đà Lạt. Năm 1945, ngài về khởi công xây dựng chùa Linh Phong ở Trại Hầm-Đà Lạt, với đồ án do chính Hòa Thượng phác họa, tự tay xây cổng Tam quan mà chứng tích nay vẫn còn uy nghiêm, sừng sững trên triền dốc với thời gian, công trình này được Kiến trúc sư nổi tiếng Ngô Viết Thụ hết sức khâm phục và đánh giá là công trình thế kỷ.

  Năm 1950, Hội Phật học Trung phần đã tổ chức an cư tập trung tại chùa Linh Phong-Đà Lạt do ngài sáng lập. Khóa hạ gồm chư Tôn Hòa Thượng: Thích Quảng Nhuận, Thích Bích Nguyên, Thích Từ Mãn, Thích Thiện Minh, Thích Minh Cảnh, Thích Hoa Sơn. Sau mùa an cư, với sự đề nghị của chư Tôn đức, Hòa Thượng Thích Bích Nguyên đã hỷ cúng chùa Linh Phong để làm cơ sở cho Ni bộ tại tỉnh Lâm Viên, và ngôi Tam bảo này chính thức trở thành trụ sở của Ni bộ Bắc tông Lâm Viên vào năm 1952.

Năm 1953, Hòa Thượng được Giáo hội cung thỉnh về làm Trú trì chùa Linh Sơn-Đà Lạt và làm Hội trưởng Hội Phật giáo Lâm Viên. Trong khoảng thời gian này, ngài đã trực tiếp giáo dưỡng nhiều thế hệ Tăng sinh từ Phật học viện Hải Đức gởi lên chùa Linh Sơn tu học. Số Tăng sinh này sau này đã trở thành những vị tôn túc lãnh đạo Phật giáo, đơn cử như Hòa Thượng Thích Nguyên Đức ở Phú Yên v.v…

Năm 1963, ngài cùng với chư Tôn đức tỉnh Tuyên Đức như Cố Hòa Thượng Thích Đạo Quang v.v… tham gia tranh đấu bảo vệ Phật giáo trong Pháp nạn 1963.

Năm 1964, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất được thành lập, vì tuổi cao sức yếu và vì tâm nguyện muốn được tịnh tu ngài giao lại vị trí Trú trì chùa Linh Sơn lại cho Hòa Thượng Thích Từ Mãn và sau đó ngài được Giáo hội cung cử và bổ nhiệm làm Trú trì chùa Viên Giác, lãnh đạo Chi hội Phật giáo Cầu Đất.

Năm 1982, ngài được Giáo hội suy cử làm Chứng minh và Cố vấn Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng. Suốt thời gian hóa đạo, Hòa Thượng đã truyền giới cho nhiều Phật tử tại gia cũng như xuất gia. Các đệ tử xuất gia của Hòa Thượng như các vị : Thật Trí, Thật Tánh, Thật Tâm (Không Trú), Thật Quán (Không Trung) .v.v…

Hòa Thượng luôn giữ nếp sống phạm hạnh, nghiêm trì giới luật, nhật trung nhất thực, ngày hai buổi công phu hôm sớm, hai thời thiền định. Đến lúc tuổi già sức yếu ngài cũng không bao giờ trễ nãi. Bài thơ “Gởi bạn” là một trong số nhiều cảm tác của Hòa Thượng có thể được xem là nét tiêu biểu về quan niệm tu hành, công phu tu tập miên mật và thể hiện rõ cá tính của Hòa Thượng.

                                      GỞI BẠN

          Gian khổ dù chi chẳng nại hà

          Xả thân cầu đạo quyết ly gia

          Ngồi trên nước đục bùn không nhuốm

          Đứng dưới trăng nghiêng bóng chẳng tà

          Học vấn noi theo gương Đức Phật

          Tu hành quyết hướng cảnh Di Đà

          Lấy gì tỏ nỗi tình chân thật

          Xin tặng vần thơ chút gọi là.

Vào đầu hạ Đinh Mão, Hòa Thượng lâm bệnh nhẹ. Đến ngày 11 tháng tư năm Đinh Mão, nhằm ngày 08/05/1987, Hòa Thượng đã an nhiên thị tịch, trụ thế 88 tuổi, hạ lạp 51.Trước khi thị tịch, ngài đã để lại bài kệ Di chúc cho Môn đồ như sau:

          Bích Nguyên viên tịch chớ băn khoăn

          Đệ tử chôn sâu nhớ khỏa bằng

          Mạng sống bập bềnh nhö bọt nước

          Huyễn thân chốc lát tợ sương băng

          Đừng buồn, đừng khóc, đừng thương tiếc

          Không cúng, không thờ, không phục tang

          Chỉ có tinh chuyên thường niệm Phật

          Mới mong giải thoát đắc siêu thăng.

Nam mô Từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập tam thế khai sơn Linh Phong tự, Trú trì Linh Sơn tự, Viên Giác tự, húy thượng CHƠN hạ THANH, tự CHÁNH MẬU, hiệu BÍCH NGUYÊN Đại lão Hòa Thượng Giác linh.

Môn đồ pháp quyến đồng kính lập

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 9550)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 8249)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 12356)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 7778)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 7235)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 9085)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 7725)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 7355)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 6834)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 6753)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]