Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV-Vị Trí Văn Học

21/05/201312:48(Xem: 9265)
IV-Vị Trí Văn Học

TOÀN TẬP 
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI 

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000

--o0o--

IV


VỊ TRÍ VĂN HỌC

Việc tồn tại các kinh điển bằng tiếng Việt theo nghiên cứu của chúng tôi đã xuất hiện từ lâu, ngay khi những lời dạy của Đức Phật được truyền thụ lại cho những người Phật tử Việt Nam như Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Điều bất hạnh là do thiên tai địch họa, đặc biệt là do dã tâm diệt chủng văn hoá của kẻ thù, số kinh điển này đã không được bảo lưu cho chúng ta ngày nay một cách nguyên vẹn. Dẫu thế chúng ta biết một số chúng đã có mặt rất sớm như Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tạp thí dụ kinh v.v…Và qua những năm tháng sau đó chắc chắn những kinh khác cũng đã được dịch ra tiếng Việt hoặc từ chữ Phạn, Pàli hay chữ Hán, nhưng hầu hết đã bị tán thất. Bản kinh sớm nhất còn nguyên vẹn bằng tiếng Việt mà ta có hiện nay là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có thể coi là được thiền sư Viên Thái (k.1400-1460) dịch vào khoảng giữa những năm 1440 khi đất nước đang nỗ lực dân tộc hoá các sinh hoạt văn hoá của mình sau thời gian bị giặc Minh chiếm đóng. Rồi thiền sư Pháp Tính (k.1470-1550) đã mạnh mẽ hô hào việc học tập tiếng Việt quốc âm :

Hồng phúc tên Hương Chân Pháp Tính

Bút hoa bèn mới đính nên thiên

Soạn làm chữ cái chữ con

San bản lưu truyền ai đặt thì thông…

Vốn xưa làm nôm xe chữ kép

Người thiểu học khôn biết khôn xem

Bây chừ nôn dạy chữ đơn

Cho người mới học nghĩ xem nghĩ nhuần .

Trong Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, chính trong phong trào dân tộc hoá đầy khí thế này, cả một cao trào sáng tác văn học bằng chữ Việt mới ra đời, và được bảo lưu cho tới ngày nay cho những tác gia lớn như Nguyễn Trãi, Viên Thái, Lê Thánh Tôn, Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thọ Tiên Diễn Khánh, Phùng Khắc Khoan, Lê Đức Mao, Nguyễn Giản Thanh v.v…Sinh ra và lớn lên trong khí thế của một cao trào đang phát triển ồ ạt như thế, ta không lạ gì khi hầu như toàn bộ tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đều viết bằng tiếng Việt. Đây là một đóng góp lớn lao của Minh Châu Hương Hải đối với lịch sử văn học dân tộc ta, đặc biệt là đối với nền văn xuôi Việt Nam. Lý do nằm ở chỗ nhiều người quan niệm nền văn học dân tộc ta phần lớn gồm những truyện thơ, tức là các loại truyện bằng văn vần và không có một nền văn xuôi hoàn chỉnh. Bây giờ với việc khám phá ra bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của Viên Thái cùng với Tân biên truyền kỳ mạn lục giả thiết là của Nguyễn Thế Nghi và ba bản giải kinh của Minh Châu Hương Hải, tức Giải Kim Cang kinh lý nghĩa, Giải Di Đà kinh và Giải Tâm kinh ngũ chỉ, ta thấy nền văn xuôi Việt Nam đến thế kỷ thứ 17 đã phát triển rực rỡ và phong phú. Tiếng nói dân tộc được ghi lại một cách trung thành, sau các tác phẩm tiếng Việt đầu tiên hiện còn bảo tồn là Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông (1258-1308) và Vân Yên tự phú của Huyền Quang (1251-1334) .

Ngôn ngữ của bản kinh giải này đã đạt đến một vẻ đẹp văn học nhất định, chúng ta hiện có thể đọc các đoạn văn sau đây và cảm thấy chúng gần gũi với tiếng nói chúng ta ngày nay như thế nào, khi Minh Châu Hương Hải giải thích bài kệ cuối cùng của kinh Kim Cương :

"Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ư?g tác như thị quan

Hết thảy hữu vi pháp là trên tự thiên địa tạo hoá, dưới đến nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu khó sang hèn, sĩ nông công thương, mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết thảy thiện ác muôn pháp cũng là hưũ vi vậy …"

Đọc các đoạn văn như thế này, rõ ràng Minh Châu Hương Hải đã có những đóng góp mới. Ông đã không dùng thủ pháp dịch đuổi mà cho đến thời ông tương đối khá phổ biến và được thử thách, thể hiện qua các công trình dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của thiền sư Viên Thái thuộc thế kỷ thứ 15 cũng như Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi thuộc thế kỷ 16. Dịch đuổi là dịch theo lối chữ nào nghĩa đó. Trường hợp các bản thích giải của Minh Châu Hương Hải không thuộc và sử dụng thủ pháp ấy, ông đã dựa vào một câu hay đoạn văn chữ Hán rồi giải thích bằng tiếng Việt quốc âm theo cách hiểu của bản thân ông, đây có thể nói là một đóng góp mới đối với lịch sử văn học tiếng Việt, bởi vì, tiếng Việt văn xuôi được dùng một cách tự nhiên, không bị gò bó bởi câu chữ của nguyên bản tiếng Hán. Có thể nói Minh Châu Hương Hải là người đầu tiên đã ghi lại những câu nói tiếng Việt bình thường của người Việt Nam vào thời ông trong khi trao đổi ý kiến hay giảng giải cho nhau nghe về những vấn đề gì, mà họ cảm thấy quan tâm hay thích thú. Việc này giúp ta xoá bỏ vĩnh viễn thành kiến cho rằng văn học dân tộc ta không có nền văn xuôi cho đến thời kỳ mất nước của thế kỷ 20, mà trước đây thường hay rao giảng một cách vô bằng .

Điều quan trọng hơn nữa là văn xuôi hay của Minh Châu Hương Hải có thể nói là đại biểu cho tiếng nói của một dân tộc thống nhất mà vào thời ông các sử sách ta thường hay đề cập đến việc chia cắt đất nước thành hai miền khác nhau, và các nhà lãnh đạo chính trị của hai miền này thường được giả thiết là muốn biến thành hai nước khác nhau. Thực tế, Minh Châu Hương Hải đã sinh ra, lớn lên và thành đạt ở miền Nam của Tổ quốc, tức tại vùng Trị Thiên và Quảng Nam ngày nay. Rồi sau đó, ông đã ra sống 30 năm cuối cùng của đời mình tại miền Bắc, ở tỉnh Hưng Yên hiện tại. Những tác phẩm văn xuôi do ông để lại cho chúng ta vì thế, thể hiện được tiếng nói thống nhất của cả hai miền tổ quốc. Đây là một đặc điểm khác của văn xuôi Minh Châu Hương Hải, mà ta cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu được tiếng nói của dân tộc ta vào thời bấy giờ. Văn xuôi của Minh Châu Hương Hải không còn là loại văn xuôi dịch thuật, mà đã bắt đầu buớc qua địa hạt văn xuôi sáng tác, dùng văn xuôi tiếng Việt hàng ngày để thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm của mình, để vươn lên và đạt tới một nền văn xuôi văn học .

Vậy thì Minh Châu Hương Hải đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam, người mở đầu cho nền văn xuôi sáng tác tại Việt Nam, mà ta hiện biết. Cho nên, phải nói rằng Hương Hải mới chính là người đã đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam bằng tiếng Việt chứ không phải tác giả Truyền kỳ mạn lục, như quan điểm của các sách về lịch sử văn học Việt Nam trước đây. Ai đã chịu khó đọc sơ qua lịch sử văn học hiện thực Trung quốc, thì cũng biết Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục đã mô phỏng theo Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh Trung quốc, trong đó thậm chí có truyện đã lấy lại hẳn cốt truyện của Cù Hựu, với chỉ một vài thay đổi về nhân danh và địa danh. Vì vậy, nói đến văn xuôi sáng tác tiếng Việt, ta phải coi Minh Châu Hương Hải là người tiên phong, tối thiểu là trong lĩnh vực sở trường của ông, lĩnh vực tư tưởng Phật giáo và sử dụng tiếng nói dân tộc .

Tất nhiên, tiếng Việt thời Minh Châu Hương Hải cách chúng ta gần 400 năm, có những nét đặc thù mà khi tiếp cận ta cảm thấy khó khăn cho việc nhận thức và lý hội. Chẳng hạn những từ như bui ( ), lệ ( ), hợp ( ) v.v… với nghĩa chỉ, sợ và nên ngày nay không còn dùng trong tiếng Việt hiện đại, nhưng không phải vì thế mà ta không hiểu tác phẩm văn xuôi của ông. Thực tế, như đoạn văn xuôi chúng tôi trích ở trên cho thấy tiếng Việt thời ông không xa với tiếng nói của người Việt chúng ta ngày nay bao nhiêu .

Chúng ta hãy đọc một đoạn văn mở đầu cho bản Giải tâm kinh ngũ chỉ sau đây thì cũng có thể thấy :"Nương lời trong kinh, dịch rằng Thích Ca Thế Tôn thuở trú trong Linh thứu sơn, vào tọa thiền, nhập Quang minh đại định. Khi ấy Xá Lợi Tử bạch Quán Tự Tại Bồ Tát rằng :"Dầu có chúng sinh tu hành, muốn học cửa pháp Bát Nhã thần thông vi diệu, rằng làm sao cho hiểu thấu được"Quán Tự Tại Bồ tát bèn dạy bảo Xá Lợi Tử rằng :"Thích Ca Thế Tôn diễn thuyết đại bộ Bát Nhã 600 quyển. Một Bát nhã tâm kinh này lấy làm chí tinh chí yếu, , là mẹ đại bộ chư kinh, truyền sang Đông Độ đã 5 lần dịch, đến đời Đường Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu dịch truyền để Đông Độ lấy làm chính giáo thịnh hành …"

Đọc đoạn này, tiếng Việt của Minh Châu Hương Hải đâu có cách xa gì với tiếng Việt của chúng ta hiện nay. Chỉ có vấn đề là ông đã giới hạn việc sử dụng tiếng Việt trong việc giải thích các kinh điển Phật giáo, mà không mở rộng đến các lĩnh vực khác của đối tượng văn học, tất nhiên ta không thể đòi hỏi nhiều ở Minh Châu Hương Hải, những con người tiên phong .

Điểm lôi cuốn hơn nữa là Minh Châu Hương Hải không phải không biết làm thơ bằng tiếng Việt. Sự lý dung thông là một điển hình, đây là một bài thơ hay, lời lẽ điêu luyện, hình tượng hấp dẫn dài 162 câu, được viết theo thể song thất lục bát, đứng vào hàng những bài thơ song thất lục bát đầu tiên của dân tộc, mở đầu cho những danh tác về sau như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích. Vì vậy, việc ông dành một số lớn thời gian để thích giải các kinh điển Phật giáo bằng văn xuôi tiếng Việt đã chứng tỏ ông có một niềm đam mê và yêu mến như thế nào đó đối với tiếng nói hằng ngày của đồng bào mình. Tình cảm nồng đậm này phải kể là một điểm son khác của sự nghiệp Minh Châu Hương Hải. Sau ông vẫn còn tìm thâý những người Việt Nam khác đã dùng thơ truyện để diễn giải kinh truyện Phật giáo như Chân Nguyên trong Đạt Na thái tử hạnh, Nam hải Quan âm bản hạnh, v.v…và Pháp Liên trong Pháp Hoa quốc ngữ kinh. Thế mà vào thời mình, ở thế kỷ thứ 17, Minh Châu Hương Hải đã mạnh dạn giảng giải kinh điển cho đồng bào mình bằng tiếng nói thường ngày của họ. Nói khác đi, không phải Minh Châu Hương Hải không có tài làm thơ, nên ông đã dùng văn xuôi để viết nên các tác phẩm của mình. Trái lại nữa là khác, nhưng ông đã viết hầu như toàn bộ tác phẩm của mình bằng văn xuôi, mà hiện tại ta đã tìm thấy 3 tác phẩm, thì đó là một biểu hiện tấm lòng yêu mến của Minh Châu Hương Hải đối với tiếng nói thường ngày của dân tộc ta.

Đây là một số những thu hoạch sơ bộ của chúng tôi, khi nghiên cứu các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải, để cho ra đời toàn tập này. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tìm hiểu sâu xa hơn để xác định đúng đắn không những vị trí của Minh Châu Hương Hải trong lịch sử văn học dân tộc, mà còn để làm rõ quá trình phát triển và tiến hoá của lịch sử văn học Việt Nam, giúp cho con cháu ta nhận thức chính xác những cống hiến to lớn của tổ tiên trong việc giữ gìn và bồi đắp tiếng nói của dân tộc. Quá trình phát triển văn học dân tộc bằng tiếng Việt là một quá trình đấu tranh cam go, khốc liệt chứ không phải là quá trình phát triển dễ dàng và êm thắm, đặc biệt là trong lĩnh vực văn xuôi. Quá trình này có sự đóng góp của nhiều người qua nhiều thế kỷ, mà ngày nay tác phẩm phần lớn đã bị thất truyền, từ những bản kinh đầu tiên thời Hùng vương cho đến những tác phẩm của Từ Đạo Hạnh v.v…cuối cùng đến Trần Nhân Tông và Huyền Quang, chúng ta có được những tác phẩm đầu tiên của dân tộc được bảo tồn nguyên vẹn, rồi đến Trần Tùng Quang, Nguyễn Biểu, nhà sư chùa An Quốc, Nguyễn Trãi, Viên Thái v.v…chúng ta có một loạt những tác phẩm văn học được lưu truyền cho đến ngày nay. Tới nhóm thơ Tao Đàn do Lê Thánh Tôn thành lập rồi các tác phẩm của Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v…cả một cao trào sử dụng tiếng Việt để làm thơ, văn đang hừng hực vươn lên chiếm lĩnh vị thế chủ đạo, Pháp Tính đã mạnh dạn nói rằng mình đã kế thừa sự nghiệp tự điển quốc âm của Sĩ nhiếp, thiết định lại chữ viết tiếng quốc âm cho mọi người dễ học, dễ nhớ. Nhưng tất cả các vị này hầu hết đều bằng tiếng Việt thơ mà không phải tiếng Việt văn xuôi, điều này ta phải đợi đến Minh Châu Hương Hải mới có được những thành tựu đầu tiên hiện được lưu truyền. Chúng ta cần phải trân trọng những thành tựu đó và cần nghiên cứu thêm hơn nữa để hiểu biết trọn vẹn hơn quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc ta .


---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 7398)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
25/01/2021(Xem: 4154)
Nói đến cụ Họa, hầu như người người dân thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, quận Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nếu sống cùng thời thì ai ai cũng biết cụ. Thật ra tên cụ là Võ đình Thụy, pháp danh Tâm Huệ sinh năm 1899 mất ngày 31 tháng 1 năm 1951 tại quê nhà. Cụ dáng người tầm thước. Sóng mủi cao cân xứng với khuôn mặt chữ điền. vầng trán cao rộng. Miệng hàm én. Đặc biệt hai mắt sáng quắt, biểu lộ đức tính ngay thẳng, lòng đầy quả cảm.
03/01/2021(Xem: 9329)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
20/12/2020(Xem: 4027)
Kính lạy giác linh Tổ sư: Chúng con đã từng nghe: Đồng An xưa, thác sanh thai thánh Dòng Lương Thị, quang huy ấu đồng. Tuyền Châu hun đúc ngọn từ phong. Phước Kiến ân triêm nguồn pháp vũ. Rồi từ đó: THẾ giới bao la, sáng ngời tinh tú ÂN sư cao cả, bừng trổi đàm hoa. Tướng hảo dung hòa Từ trí viên mãn. Nghiệp bút nghiên sáng lạng Nếp nho gia miên trường.
13/12/2020(Xem: 11991)
lễ Cúng Dường Đại Tăng trong ngày Sinh nhật Lần Thứ 94 của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan. Thời gian: 1giờ 30 chiều ngày 01 tháng 01 năm 2021 Địa điểm: Chùa Hồng Danh 1129 Bal Harbor Way. San Jose, CA 95122. USA
12/12/2020(Xem: 5674)
Tu Viện Quảng Đức/Trang nhà Quảng Đức vừa nhận tin viên tịch (từ HT Thích Minh Hiếu): Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giác Phúc, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN Giáo phẩm chứng minh Hệ phái Khất sĩ Tăng trưởng Giáo đoàn IV Viện chủ Pháp viện Minh Đăng Quang, Thế danh: Lê Văn Xa Sinh năm: 15/04/1936 Xuất gia: 29/09/AL/1958 Thọ Sa di: Rằm/10/1959 Thọ Tỳ kheo: Răm/07/1963 Hạ lạp: 57 năm Trụ thế: 85 năm Viên tịch vào lúc: 07 giờ ngày 28/10/Canh Tý (tức 12/12/2020) tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ nhập liệm: 19 giờ cùng ngày tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ kính viếng sau đó tại lễ đường Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ tưởng niệm di quan, trà tỳ vào lúc 06 giờ ngày thứ Ba, Mùng 02/11/Canh Tý (tức ngày 15/12/2020 tại Phúc An Viên, Q. 9 *** Cáo Phó và chương trình tang lễ sẽ được phổ biến chi tiết trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính đảnh lễ Đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng Tân viên Tịch nguyện cầu Giác Linh ngài Cao Đăng Phật Quốc. Na
04/12/2020(Xem: 7068)
Được biết, do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 9g10' sáng nay, 4-12-2020 (nhằm ngày 20-10-Canh Tý), tại trụ sở văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hoà (chùa Đức Hoà, số 128 Trần Quý Cáp, P.Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), hưởng thọ 73 năm, 50 hạ lạp. Hoà thượng tân viên tịch thế danh Trịnh Văn Bảo, sinh năm 1948 tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Tân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hoà), xuất gia với HT.Thích Viên Nhơn, trụ trì chùa Báo Ân (An Cựu, Huế). Ngài được Hoà thượng Bổn sư ban pháp danh Quảng Thường, tự Ngộ Tánh.
23/11/2020(Xem: 6865)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
22/11/2020(Xem: 3754)
Trong đời sinh ra, ta may mắn được đầy đủ sáu giác quan, đó là đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, đôi tay để cầm nắm, đôi chân để đi, cái miệng để nói và thọ dụng ăn uống, cái mũi để tập thở vào ra, tấm thân khỏe mạnh là không ốm đâu, từ những chức năng trên ta một dạ tri âm, Cha ta và Mẹ ta, vì chính họ cho ta có một cuộc sống bình an, chính là bậc thầy chính hiệu trong gốc rễ huyết thống. Ta sinh ra trên Trần thế, một dạ tri âm, các bậc Thầy giáo, Cô giáo, từ lớp lá, lớp mầm, lớp chồi, và cao quý hơn khi ta học từ cấp một đến Đại học trong trường, hay ở xung quanh, tất cả nhờ vào con chữ.
11/11/2020(Xem: 6715)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]