HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Giữathếkỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn
Ngàingười Bắc-Ấn, trước đã sẵn lòng mến đạo, thông hiểuđạo lý. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn gặp Tổ Cưu-Ma-La-Đa,Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyềntâm ấn. Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa các nước,lầnlượt đến thành La-Duyệt. Trong thành nầy hiện có số đôngchúng tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến, họ đua nhau đếnyết kiến. Chúng đến trước nhất,người lãnh đạo là Bà-Tu-Bàn-Đầu.Ông nầy tu hành tinh tấn suốt ngày đêm không nằm và sáuthời lễ bái, mặc y vá, ăn một bữa, lòng đạm bạc khôngmong cầu. Đồ chúng nhơn đó rất kính trọng ông.
Ngàigọi đồ chúng bảo: -Người khổ hạnh tu hành thanh tịnhnầy (Bà-Tu-Bàn-Đầu) có thể được Phật đạo chăng ?
Chúngđáp: -Thượng nhơn nầy tu hành tinh tấn như thế, đâu khôngđược đạo. Ngài bảo: -Người nầy cùng đạo xa vậy.
Dùkhổ hạnh trải qua nhiều kiếp,chỉ giúp cho gốc vọng, đâuthể chứng đạo? Chúng hỏi: -Nhơn giả chứa đựng đượcpháp gì mà chê thầy tôi? Ngài đáp: -Ta chẳng cầu đạocũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinhmạn, ta chẳngngồi mãi cũng chẳng lười biếng, ta chẳng biết đủ cũngchẳng tham cầu. Bà-Tu-Bàn-Đầu nghe lời nầy vui vẻ nói bàikệ tán thán: Khể thủ tam muội tôn, Bất cầu ư Phật đạo,Bất lễ diệc bất mạn, Tâm bất sanh điên đảo, Bất tọabất giải đải, Đãn thực vô sở hảo, Tuy hoãn nhi bất trì,Tuy cấp nhi bất tháo, Ngã kim ngộ chí tôn, Hòa nam y Phậtgiáo Dịch: Đảnh lễ tam muội lớn, Chẳng cầu được Phậtđạo, Chẳng lễ cũng chẳng khinh, Tâm chẳng sanh điên đảo, Chẳngngồi chẳng lười biếng, Chỉ ăn không cần ngon, Tuy hoãnmà không chậm, Tuy gấp mà chẳng thô, Nay con gặp chí tôn,Cúi đầu vâng Phật dạy.
Ngàibảo chúng: -Người tu hạnh đầu đà nầy, bọn ngươi khôngthể bì kịp.Vì ông ấy kiếp trước tu hạnh bất khinh nênmới được như vậy. Vừa rồi,ta chê ông, bởi thấy ông đạotâm tha thiết, sợ e như sợi đờn thẳng quá phải đứt nênta không khenông, muốn ông tiến đến chỗ vô sở đắc và dừng trụnơi đất An-Lạc. Ngài lại gọi Bàn-Đầu hỏi: -Ta nói tráiý ông, tâmông được chẳng động chăng? Bàn-Đầu thưa: -Đâu dám độngtâm.Tôi nhớ bảy đời về trước sanh cõi An-Lạc, vì mộđạo nên thờ trí giả Nguyệt-Tịnh làm thầy. Thầy Nguyệt-Tịnhdạy tôi: <Không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-Đà-Hàm,nên siêng năng tinh tiến. Phàm tu hành như trèo lên cao, phảicố gắng tiến lần lên, không cho sụt xuống. Nếu lỡ cósụt, muốn trèo lên lại càng khó >. Lúc đó, tôi đã tám mươituổi, nương gậy mới có thể đi được. Khi ấy, gặp Bồ-TátĐại-Quang-Minh ra đời, tôi muốn đến lễ Ngài, bèn đi đếntịnh-xá, lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy Nguyệt-Tịnhquở tráchtôi: <Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng con? Hômtrước, ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đã mất>
Khiấy, tôi tự cho là không có lỗi, nên không phục những lờiquở ấy. Tôi cầu xin thầy Nguyệt-Tịnh chỉ lỗi cho tôi.Thầy Nguyệt-Tịnhdạy: -< Vừa rồi,ngươi đến đảnh lễ Bồ-Tát Đại-Quangtại sao lại dựng cây gậy vào mặt Phật vẽ trên vách, Ngươido lỗi nầy nên sụt quả vị >. Tôi nhớ kỹ lại, thật đúngnhư lời thầy Nguyệt-Tịnh quở. Từ đó về sau, phàm có nghelời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những lời chửi mắngvẫn coi như gió thổi ngoài tai. Huống là, nay Tôn-giả dùng chánhpháp chỉ dạy thì đâu dám phiền buồn. Cúi xin đấng đạitừ thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho con.
Ngàiliền dạy: -Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao chongươi, ngươi nên truyền bá chớ để dứt mất. Nghe ta nóikệ: Ngôn hạ hiệp vô sanh, Đồng ư pháp giới tánh, Nhượcnăng như thị giải, Thông đạt sự lý cánh.
Dịch:Nói ra hợp vô sanh, Đồng cùng tánh pháp giới, Nếu hay hiểunhư thế, Suốt thông sự lý tột.
Bà-Tu-Bàn-Đầulễ bái vâng lệnh. Ngài ngồi ngay trên tòa lặng lẽ qui tịch.Chúng hỏa táng thu xá-lợi xây tháp thờ.