Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đáp ứng của Phật Giáo trước Đại Dịch Covid-19 từ gốc độ lịch sử ( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic in Historical Perspective)

01/02/202218:55(Xem: 5878)
Đáp ứng của Phật Giáo trước Đại Dịch Covid-19 từ gốc độ lịch sử ( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic in Historical Perspective)

covid-19 


 ĐÁP  ỨNG  CỦA PHẬT GIÁO  TRƯỚC  ĐẠI  DỊCH  COVID -19  TỪ  GỐC ĐỘ  LỊCH SỬ

( Buddhist Responses to the Covid-19 Pandemic

 in Historical Perspective)

 

Nguyên Tác : C. Pierce Salguero
Việt dịch      : Trần Như Mai

 

 

 

Giới thiệu : C. Pierce Salguero là một học giả liên ngành về y học nhân văn . Ông đã có học vị Tiến sĩ về Lịch Sử Y Khoa tại Đaị Học Y Khoa John Hopkins, Hoa kỳ  ( 2010) , và giảng dạy về Lịch sử Á Châu, Y học và Tôn giáo tại Trường Abington, thuộc Đại học Pennsylvania, gần Philadelphia. Trong số nhiều công trình nghiện cứu đã được xuất bản có liên quan đến Phật Giáo và Y học, ông là tác giả của bộ sưu tập  “Phật Giáo và Y học” , do Đaị học Columbia xuất bản.

 

*****************

 


stayhomecovid19

Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử.

 

Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh  Hoa Kỳ công bố  - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương  tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho những nỗ lực quốc tế rộng khắp của Hội Từ Tế để giúp khống chế và giảm thiểu tác hại của đại dịch khắp nơi trên thế giới. Suốt thời gian này, trụ sở trung ương của Hội cũng liên tục phổ biến Giáo pháp được soạn thảo cho những thời điểm khó khăn như hiện nay. Giáo pháp ấy gồm có “ Lời nhắc nhở hằng ngày” khích lệ Phật tử cầu nguyện, giữ vững chánh niệm, thanh lọc tâm, phát triển lòng từ bi, thực hành ăn chay và xem đại dịch như là một dịp để thức tỉnh tâm linh.

 

Những đáp ứng có tầm mức rộng lớn khác của Phật giáo trước đại dịch Covid-19 bao gồm các hoạt động của tổ chức Soka Gakkai International ( SGI), một tổ chức Phật giáo khổng lồ  đặt trụ sở trung ương ở Tokyo, với khoảng 12 triệu hội viên ở 192 quốc gia.  Trong một thông cáo báo chí ngày 10/ 4 /2020, chủ tịch hội SGI là Minoru Harada thông báo rằng các chi nhánh tại Ý, Mã-lai, và Hoa kỳ đang tặng khẩu trang và gây quỹ để gúp đỡ các nhân viên y tế ở tuyến đầu, trong lúc các hội viên trẻ ở Nhật chia sẻ một sáng kiến về “Ở Nhà” trên Twitter.

 

Cũng trong tháng 4, tổ chức Dhammakaya của Thái-lan đã sử dụng YouTube để kêu gọi khoảng 3 triệu hội viên khắp thế giới cùng đến với nhau để “ hành thiền chống coronavirus”. Tổ chức này gọi nỗ lực của họ để tích lũy một triệu phút hành thiền  tập thể vào ngày 22/04/2020 là một hành động sẽ “ chữa lành vết thương trên thế giới ”. Trong lúc đó Đức Dalai Lama đã  xuất hiện  rất nhiều lần trên các phương tiện truyền thông báo chí để truyền bá đáp ứng của ngài trước đại dịch Covid-19. Trong một bài báo đăng trên tạp chí Time ngày 14/04/2020 , ngài đã diễn dịch cuộc khủng hoảng này theo nguyên lý tương quan tương liên, khổ, và vô thường , và kêu gọi lòng từ bi và hy vọng. Trong một bài báo khác dành riêng cho các Phật tử Trung quốc và Tây Tạng, ngài đặc biệt kêu gọi các tín đồ tụng thần chú Bồ tát Tara  để  cầu an và được che chở  chống lại virus.

 

Những hành động được tóm tắt ở đây  tiêu biểu cho tính đa dạng trong các đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch Coronavirus. Do tầm cở của những tổ chức đặc biệt này, những sáng kiến của họ đã tạo nên  ấn tượng rộng lớn hơn hầu hết các tổ chức khác. Nhưng các tổ chức Phật giáo khắp thế giới – dù là Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa, truyền thống hay hậu truyền thống, điạ phương hay toàn cầu - tất cả đều tích cực dấn thân giúp đỡ các thành viên  và công đồng của họ bằng nhiều phương cách tương tự trong lúc hoạn nạn này.

 

Nói chung, phần lớn những đáp ứng trước đại dịch coronavirus đều có  nền tảng vững chắc dựa trên giáo lý và lịch sử Phật giáo. Có lẽ rất nhiều độc giả đã quen thuộc với lời dạy của Đức Phật về các chiều hướng tinh thần và tâm linh. Tuy nhiên, có lẽ các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng đây cũng là trường hợp Phật giáo đã giảng dạy hằng nghìn năm trước về những đáp ứng đặc biệt, trực tiếp và cụ thể trước các dịch bệnh truyền nhiễm. Những biện pháp chống lại dịch bệnh đã được đề cập đặc biệt trong các bài kinh lớn xuyên qua nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Trong các nền văn hóa Á châu tiền-hiện-đại, các tu viện Phật giáo là một trong những tổ chức có nhiều quyền lực và tương quan xã hội nhất , và vì thế thường có nhiều ảnh hưởng trong việc vận động quần chúng đáp ứng các vấn đề sức khỏe cộng đồng.

 

Bên ngoài các cơ cấu tổ chức chính thức, tín đồ Phật giáo thường tổ chức các nhóm tương trợ và  dự án từ thiện vào những lúc có dịch bệnh, nạn đói, và các thiên tai khác. Nhiều tiền lệ ấy trong lịch sử đang vang vọng lại trong những đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch toàn cầu hiện nay. Ở đây, tôi muốn hướng trọng tâm đến ba lãnh vực: hành thiền, từ thiện và nghi lễ cầu an. Những ví dụ được đề cập dưới đây đã được các học giả ghi lại thành tài liệu trong khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo và y học, và được rút ra từ các tuyển tập “Phật giáo và Y học” của tôi vừa đựợc Viện Đại Học Columbia xuất bản gần đây.

 

Uy lực của thiền tập để nâng cao sức khoẻ đang xuất hiện như một trọng tâm của những đáp ứng của Hội Từ Tế, Tu viện Dhammakaya, và những nhóm Phật giáo thuộc các tông phái khác.  Nhiều chùa và trung tâm hành thiền khắp thế giới đã tạo ra nhiều nguồn tài liệu như ‘Tăng đoàn ảo’, ‘thiền tập được hướng dẫn đặc biệt để tăng cường sức đề kháng và sức khoẻ ’ để phục vụ moị người  trên Mạng Internet . Những biện pháp này phản ảnh sự kết hợp lâu đời giữa thiền tập và sức khoẻ trong truyền thống Phật giáo, vốn đã có mặt rất lâu trước thế kỷ thứ 21,  khi các nhà khoa học thần kinh  nhấn mạnh đến sự can thiệp của thiền chánh niệm để giảm căng thẳng  thần kinh.

 

Thiền tập không những được xem là giúp giảm căng thẳng tinh thần và tăng cường sức đề kháng, mà còn trực tiếp chữa lành nhiều bệnh tật về thể chất. Thí dụ, thiền quán về những chi phần của giác ngộ được mô tả như là một phương pháp thực hành để xua đuổi bệnh tật trong một số bài kinh thuộc Phật giáo Nguyên Thủy, như bài kinh Girimānanda Sutta ( Tăng Chi BK 10.60 ) từ Kinh tạng Pāli, được kết tập trong thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Truyền thống Đại thừa đã dành trọn nhiều bộ luận viết về đề tài làm thế nào một bậc thánh nhân giác ngộ tánh không đã chứng tỏ hoàn toàn chế ngự được bệnh tật, thí dụ như Kinh Duy Ma Cật ( Virmalakirti Sutra), đựợc viết vào thế kỷ 100 sau Tây lịch. Các pháp hành thiền quán tưởng  để chữa  bệnh đã đóng một vai trò nổi bật trong Kim Cương Thừa (Mật Tông) ít nhất là từ thế kỷ thứ năm sauTây lịch, khi các hành giả bắt đầu quán tưởng thần chú, các biểu tượng thiêng liêng hoặc thần linh nhập vào thân để chữa lành bệnh tật hoặc điều hoà năng lượng vi tế . Trong lúc cơ cấu của những phương pháp thiền tập được cho là để chữa bệnh ấy khác nhau tùy theo sự khác biệt giữa các truyền thống Phật giáo và các nền văn hóa , khái niệm về thiền tập có thể chữa lành bệnh hoặc phòng bệnh là một sợi chỉ chung xuyên suốt các tông phái Phật giáo.

 

Một chủ đề quan trọng thứ hai trong những đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch COVID-19 là sự nhấn mạnh đến tâm từ bi và hạnh bố thí đối với người bệnh. Những sáng kiến từ thiện của các tổ chức như Hội Từ Tế, Hội SGI là phiên bản  hiện đại của sự dấn thân của Phật giáo trong công tác từ thiện về mặt y tế  theo truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ trước. Bắt đầu từ thuở sơ kỳ là thế kỷ thứ 6 sau Tây lịch và tiếp tục suốt thời kỳ tiền-hiện-đại, các tài liệu lịch sử còn ghi lại  chứng tỏ rằng các nhà nhà hảo tâm Phật giáo đã thường xuyên thành lập và tài trợ  rất nhiều bệnh viện và trạm xá y tế khắp các nước như Campuchia, Trung hoa, Nhật bản, Hàn quốc, Tích-lan, Thái lan, và Tây-tạng. Các cơ sở y tế đó thường do những tăng ni Phật giáo điều hành, và đôi lúc còn được đặt ngay trong khuôn viên của chùa.

 

Thậm chí các cơ sở Phật giáo đôi lúc còn đóng vai trò trực tiếp trong việc thi hành những sáng kiến cứu trợ về y tế hay tai ương thảm họa công cọng ở cấp bậc địa phương. Trong lúc các bệnh viện tiền-hiện-đại chăm sóc bệnh nhân bằng đủ loại y dược truyền thống, thì nhiều tổ chức Phật giáo đương đại đã chuyển sự hỗ trợ của họ sang những biện pháp can thiệp khoa học và y sinh học. Như vậy, các tổ chức từ thiện Phật giáo ngày nay đã tích cực hỗ trợ hoặc trực tiếp điều hành đủ loại bệnh viện, phòng khám bệnh, và những sáng kiến y tế công cọng khắp thế giới.

 

Dù  là lời nhắc nhở cầu nguyện hằng ngày của Hội Từ Tế,  sự nhấn mạnh của Hội SGI về tụng các thần chú, hay lời khuyên của Đức Dalai Lama về cầu nguyện Bồ Tát Tara, một chủ đề lớn khác đã xuất hiện trong đáp ứngcủa Phật giaó trước đại dịch Covid-19 là nghi lễ cầu nguyện sự bảo vệ. Đây đã là mối quan tâm chung đối với Phật tử, xuất phát từ thời xa xưa  khi  lịch sử các truyền thống bắt đầu được ghi chép lại, và tiếp tục trở thành vấn đề quan trọng nhất đối với hầu hết Phật tử khắp thế giới ngày nay.

 

Trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy sơ kỳ, một số bài kinh đặc biệt được tụng như là Kinh Cầu An ( Parittas ), để được bảo vệ khỏi bị bệnh tật và tai họa. Đặc biệt, các bài kinh kể lại chuyện được chữa lành bệnh ngay – như là Kinh Girimānanda  đã được đề cập ở phần trên -  được cho là có năng lực giúp vượt qua bệnh tật và duy trì sức khỏe nhờ những uy lực thần bí về nguồn gốc của bài kinh. Mặc khác, truyền thống tu tập của Đại Thừa và Kim Cương Thừa có khuynh hướng đặt trong tâm vào việc kêu gọi sự phù hộ của một vài vị Phật hay Bồ-tát đặc biệt.  Bài kinh và bài Chú phổ thông nhất liên quan đến các vị Phật chuyên chữa lành bệnh tật là Kinh Dược Sư (Medicine Buddha Sutra ), Chú Đaị Bi ( Great Compassion Mantra)  liên kết với Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và Thần chú Tara được Đức Dalai Lama khuyến nghị như đã nói ở phần trên. Chúng ta có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng những ngôn ngữ thần bí đó đã được sử dụng từ thời kỳ trung cổ để chống lại dịch bệnh trong những buổi cầu nguyện riêng tư hay trong các buổi lễ cầu nguyện tập thể của quần chúng, do các tự viện lớn, vua chúa  hoặc các đoàn thể cứu tế  xã hội tổ chức.

 

Được cho là tâm điểm trong giáo  lý và lịch sử Phật giáo, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta thấy những tổ chức hành thiền để chữa lành bệnh tật, những hoạt động từ thiện về y tế, những nghi lễ cầu an đã đóng một vai trò quan trọng trong  đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch Covid-19. Các Phật tử hầu như luôn luôn sử dụng những biện pháp ấy một cách nghiêm túc như những can thiệp về y tế và sức khoẻ công cọng. Làm thế nào và tại sao họ nghĩ là những biện pháp ấy có hiệu quả lại là một câu hỏi phức tạp hơn.

 

Các truyền thống Phật giáo lớn tự thân đã có nhiều cách diễn giải về bệnh tật rất khác nhau tùy theo tông phái, văn hóa và địa lý. Trong một số nơi, các Phật tử phần lớn nghĩ đến bệnh tật là do quỷ thần gây ra, và đã tìm kiếm sự che chở theo kiểu thần bí. Trong những hoàn cảnh khác, họ đã nghĩ đến bệnh tật là do nghiệp báo, và họ đã tìm kiếm sự can thiệp của các đấng linh thiêng. Trong một số vùng miền, phần lớn người ta nghĩ rằng bệnh tật là do  những biểu hiện đặc thù của các năng lượng vi tế. Những Phật tử đương đại trước tiên muốn diễn dịch các  truyền thống ấy qua một lăng kính hiện đại có lẽ ưa thích cách diễn dịch theo tâm lý học và mang tính chất thế tục hơn về đáp ứng của Phật giáo trước đaị dịch hiện nay. Do sự khác biệt văn hóa, sự trải rộng khoảng cách về địa lý, và luôn luôn có nhiều tiếng nói khác nhau, các truyền thống Phật giáo nói chung tiếp tục đồng thời  lên tiếng về tất cả mọi biện pháp thực hiện này.

 

Như vậy, đáp ứng của Phật giáo trước đại dịch coronavirus và việc diễn dịch các biện pháp thực hiện ấy không nhất thiết phải trùng hợp nhau trong những nét đặc thù. Tuy nhiên, người ta có thể thấy những đáp ứng ấy qui tụ quanh một số chủ đề bắt nguồn sâu xa từ lịch sử . Những gì làm cho tất cả các đáp ứng ấy trở thành một phần  của truyền thống Phật giáo trước dịch bệnh không phải là vấn đề họ đồng ý với nhau trong mọi lãnh vực, mà là tất cả những đáp ứng ấy đều là một phần của cuộc đối thoại xuyên văn hóa vẫn  tiếp diễn từ mấy ngàn năm nay về Phật giáo và sức khỏe.

 

___________________________

 

    *Xin bấm vào đường dẫn này để  đọc bản tiếng Anh :

https://www.buddhistdoor.net/features/buddhist-responses-to-the-covid-19-pandemic-in-historical-perspective




facebook-1
***
youtube

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3431)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 4836)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 4798)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 6804)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3507)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3208)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
08/04/2013(Xem: 6600)
Một học giả Phật giáo, dịch giả và tác giả người Hoa Kỳ, cô Besty Napper đã từ bỏ công việc dạy học của mình ở Đại học đường Stanford vào năm 1990 để đến làm việc tại Dharamsala - Ấn Độ, giúp đỡ sư bà Rinchen Khadro, điều hành một kế hoạch xây dựng một ni viện và một trường Phật học cho ni giới Tây Tạng. "Tôi có cái may mắn mà người phụ nữ Tây Tạng không có được", cô đã trả lời phỏng vấn với sư cô Robina Courtin vào tháng sáu trong chuyến đi ngắn trở lại Hoa Kỳ để in lịch Tây Tạng năm 1996.
08/04/2013(Xem: 3269)
Một lần nữa, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tới Nam California hôm Thứ Ba 26-9-2006, nói chuyện trước 13,000 phụ nữ trong hội nghị có tên là Honference on Women (Hội Nghị về Phụ Nữ), tổ chức bởi Thống Đốc Arnold Schwarzenegger và đệ nhất phu nhân tiểu bang Maria Shriver.
08/04/2013(Xem: 4420)
Hema Goonatilake đã nhận học vị Tiến sĩ tại Khoa Á Phi Hoc thuộc Viện Đại Học Luân Đôn năm 1974. Bà là giáo sư tại đại học Kelaniya của Sri Lanka cho đến năm 1989. Sau đó, bà phục vụ như một chuyên gia về phát triển và giới tính cho tổ chức UNDP và UNIFEM ở New York và UNDP ở Cam-Bốt, và là một Cố Vấn của Viện Phật Học Cam-Bốt. Bà là sáng lập viên của hội Tiếng Nói Phụ Nữ, một hội bảo vệ nữ quyền đầu tiên của Tích Lan, và là đồng sáng lập viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Phụ Nữ ở Tích Lan.
08/04/2013(Xem: 3440)
Ni trưởng thế danh Hồ Thị Hạnh, húy thượng Trùng Hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh, sinh năm 1905, là con gái út của cụ Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Cụ Hồ Đắc Trung là một vị đại thần trong triều đình Huế thời bấy giờ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567