Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Ngạ Quỷ Mình Trăn

17/03/201408:51(Xem: 18722)
31. Ngạ Quỷ Mình Trăn
blank

Ngạ Quỷ Mình Trăn


Có một duyên sự.

Thấy Veḷuvanārāma tịnh xá đã có mặt đức Phật và cả hai vị đại đệ tử, tôn giả Mahā Kassapa xin được nghỉ ngơi bảy ngày - an trú diệt thọ tưởng định - để tịnh dưỡng thân tâm tại thạch động Pipphaliguhā, trong một hang núi không xa thành phố bao nhiêu. Đức Phật nói:

- Ừ, ông nghỉ ngơi đi! Hôm nào rảnh việc, Như Lai cũng nghỉ ngơi chút ít.

Rồi quay sang hỏi hai vị đại đệ tử, có ai mệt không, khi được trả lời là không sao, đức Phật bèn hỏi qua về “hành tung” của tôn giả Devadatta.

Tôn giả Sāriputta trình bày:

- Chắc Tôn Sư cũng rõ rồi. Từ khi vua Thiện Giác mất, bị đất rút, tôn huynh Devadatta không chịu lắng nghe bất kỳ một khuyên lơn, an ủi nào; ông ta ôm bát ra đi rồi du hóa nhiều phương. Hễ ở đâu nghe có mặt tôn sư là ông ta tìm cách di chuyển sang địa phương khác. Mới đây, tôn huynh Devadatta dường như là thường trú ở Veḷuvanārāma này, nhưng khi nghe tin Tôn Sư về đây thì ông ta lại ra đi. Có lẽ bây giờ đang ở tại dãy núi Gayāsisā, gần Nerañjarā...

Tôn giả Moggallāna chợt nói:

- Đúng vậy! Nhưng khi đức Tôn Sư từ Linh Thứu về đây thì ít hôm sau, ông ta lại lên núi Linh Thứu rồi.

Đức Phật dĩ nhiên là biết chuyện đó, nhưng ngài yên lặng một lát rồi nói:

- Thôi, bây giờ Sāriputta, Ānanda cùng một số vị trưởng lão khác, tại Veḷuvanārāma này, hay ở bên ni viện, hãy thay nhau thuyết lại nội dung những pháp thoại trên núi Linh Thứu, đồng thời, hướng dẫn cho họ cách may y với những ô, những ô như thửa ruộng cho đồng nhất.

- Thưa vâng!

- Còn Moggallāna thì chịu khó lên núi Linh Thứu, thăm Devadatta một chuyến. Chỉ thăm viếng thôi chứ không cần phải thuyết phục hay nói chuyện gì quan trọng cả.

- Thưa vâng!

Thế rồi, ai đi công việc nấy.

Hôm ấy, tôn giả Moggallāna cùng với đại đức Lakkhaṇa lên núi Linh Thứu, thấy Devadatta đang ở đây cùng với vài mươi vị tỳ-khưu khác. Tuân lệnh đức Phật, tôn giả Moggallāna chỉ làm như một cuộc nhàn vân vô sự, ghé thăm sức khoẻ nhau, hỏi han về tứ sự, xem rừng, ngắm núi rồi kiếu từ ra về.

- Tôi có một vài công việc ở đây. Cho tôi gởi lời đảnh lễ đức Đạo Sư, tôn huynh nhé!

Đấy là lời của Deadatta nói với theo.

“Bất ổn rồi! Có cái gì đó bất ổn rồi!” Tôn giả Moggallāna thầm nghĩ. Tuy nhiên, có lẽ đức Đạo Sư cũng biết, mình không nên “đa sự” làm gì!

Trên đường đi xuống, khi qua một eo núi, tự dưng, tôn giả Moggallāna dừng chân lại, yên lặng một lát, do thiên nhãn, ngài nhìn thấy một con Ngạ quỷ mình trăn đang bò, trườn trong mấy hẻm đá. Từ đầu nó, một ngọn lửa bốc lên, cháy đỏ rực lan đến đuôi; từ đuôi nó, một ngọn lửa bốc lên, cháy đỏ rực tương tự lại lan đến đầu; như vậy là, từ đầu và đuôi, ngọn lửa từ hai phía cháy rực lan đến thân giữa. Con Ngạ quỷ mình trăn đau đớn nhận chịu cực hình thống khổ ấy nên nó vật vã, quằn quại trong biển lửa đang thiêu cháy, hủy hoại thân thể mình. Tôn giả Moggallāna còn biết rõ, là nó sẽ không chết, chỉ gần chết, hoặc chết rồi sống lại ngay tức khắc; và sẽ bị trả quả, bị chịu cực hình hoài như thế cho đến lúc chấm dứt nghiệp mới thoát nợ, mới được thai sanh kiếp khác.

Thấy vậy, tôn giả Moggallāna bất giác mỉm cười, nụ cười ấy chẳng phải do ngạc nhiên, chẳng phải do vui vẻ - mà là nụ cười của bậc thông tuệ khi thấy rõ nhân và quả của nghiệp.

Đi bên cạnh, nhìn thấy nụ cười ấy, đại đức Lakkhaṇa không hiểu, cất tiếng hỏi:

- Thưa tôn giả! Nụ cười kỳ lạ vừa rồi hẵn là có nguyên nhân gì chứ?

- Có chứ, này hiền giả!

- Tôi có thể được biết lý do ấy không, thưa tôn giả?

- Giờ là không đúng thời, này hiền giả! Khi nào về đến Veḷuvanārāma, có mặt đức Đạo Sư, có mặt đại chúng, hiền giả sẽ hỏi lại; và lúc ấy, tôi sẽ trả lời, sẽ đáp ứng yêu cầu ấy.

Về lại Veḷuvanārāma, tôn giả thuật lại chuyện lên núi thăm Devadatta cho đức Phật nghe, ngài cũng im lặng không nói gì. Buổi chiều, giờ giảng pháp, có đầy đủ đức Phật và Tăng chúng, đại đức Lakkhaṇa đưa ra câu hỏi dưới ngọn Linh Thứu thì tôn giả Moggallāna liền kể lại chuyện con Ngạ quỷ mình trăn bị lửa cháy từ đầu đến đuôi, từ đuôi đến đầu như thế nào, rồi thưa với đức Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Chuyện thấy ngạ quỷ như vậy, đệ tử thường không nói với ai, vì có nói cũng không ai tin, lại còn ngại một số tỳ-khưu bảo đệ tử là khoe pháp của bậc thượng nhân. Ở đây, có đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn chứng minh cho, sự thấy biết của đệ tử là sự thật.

- Đúng vậy! Đức Phật gật đầu! Sự thận trọng của ông là phải lẽ, và chuyện thấy ngạ quỷ mình trăn kia là như chơn, là như chánh. Trước đây, Như Lai cũng đã từng thấy, không những một, hai ngạ quỷ hình thù kỳ dị, bị quả báo khốc liệt mà là cả hằng trăm, hằng ngàn, hằng trăm trăm, ngàn ngàn Ngạ quỷ như thế, nhưng Như Lai cũng không nói với ai - vì không đúng thời, không đúng lúc, chẳng đem đến lợi lạc gì, lại tạo thêm những hoài nghi vô ích! Riêng con ngạ quỷ mình trăn mà Moggallāna vừa nói ấy, Như Lai cũng đã từng thấy nhiều lần ở núi Linh Thứu; ở đây, có mặt Moggallā và chư trưởng lão có thắng trí, Như Lai xác nhận sự thật!

Được đức Thế Tôn minh chứng, như là ấn son của đức tin nhân quả ba đời, tôn giả Moggallāna nói tiếp:

- Không những chỉ một mình đệ tử, mà ở đây, tôn giả Sāriputta, Anuruddha... hay nhiều vị trưởng lão khác nữa, cũng thấy trăm trăm, ngàn ngàn ngạ quỷ như thế, bạch đức Tôn Sư!

Khi đại chúng có vẻ xôn xao, nôn nóng muốn biết nguyên nhân quá khứ của ngạ quỷ mình trăn bị lửa cháy như thế nào, thấy là đã đủ duyên, đúng thời, đức Phật kể lại; và câu chuyện ấy, sau này, được ghi lác đác trong kinh điển, nhưng rõ ràng và đầy đủ nhất là ở trong chú giải kinh Pháp Cú.

- Vào thời đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, có ông triệu phú tên là Sumaṅgala, là một đệ tử thuần thành, còn là một đại thí chủ của đức Phật và tăng-già. Vị triệu phú hiền thiện này có đức tin rất thuần khiết, hằng tâm, hằng sản tương tợ như ông Ānathapiṇḍika vậy. Triệu phú Sumaṅgala đã không tiếc công của, kiến tạo một ngôi chùa vĩ đại, hoành tráng, diệu mỹ để dâng cúng đức Phật Kassapa và tăng chúng của ngài. Trước sân chùa, có một khoảng đất rộng chừng hai mươi usabha(1), ông cho lót gạch bằng vàng. Chi phí xây dựng tổng quy mô ngôi chùa tương đương số vàng lát sân. Và khi khánh thành, ông triệu phú đặt bát dường đức Phật và hai mươi ngàn tăng chúng suốt bảy ngày; dọn yến tiếc đãi đằng các gia chủ, trưởng giả, quan khách trong thành phố cũng suốt bảy ngày với chi phí cũng tương tợ như thế. Khi cuộc đại lễ lạt thành đã hoàn mãn, bạn bè thân tín hỏi nhà triệu phú, là toàn bộ công trình kiến trúc ấy, ông tâm đắc cái gì nhất, cái gì ở đấy làm ông hài lòng nhất?

Ông triệu phú Sumaṅgala, khuôn mặt ngời ngời hoan hỷ, vui vẻ đáp:

- Là hương thất của đức Thế Tôn! Tôi thích lắm!

- Cái gì ở đấy làm ông thích?

- Vì công trình ấy, toàn bộ vật liệu đều là gỗ, là lõi chiên đàn hương cả, thơm lừng lựng và vàng óng ánh như được dát trăng vàng!

Một hôm, ông triệu phú Sumaṅgala đi thăm viếng đức Đạo Sư từ sáng sớm, đến ngang cổng thành, thấy một kẻ du thủ, du thực(2), trùm một tấm vải vàng đang nằm ngủ ngáng lối đi, lòi hai cái chân dính đầy bùn, ông quở:

- Nằm ngủ cái kiểu này, hai chân dính đầy bùn như thế này, rõ là đi rong chơi bất chánh cả đêm hôm qua đây!

Tên du thủ, du thực giở tấm vải, chường mặt ra, thấy ông triệu phú, trừng mắt nói:

- Kệ tôi, mắc mớ gì đến ông?

- Thế ta nói thế không đúng sao?

- Đúng thì đúng, nhưng tại sao ông nguyền rủa tôi?

- Ta không nguyền rủa, ta không biết nguyền rủa ai, ta chỉ nói lên sự thật thôi!

- Thế thì tôi cũng nói lên sự thật đây! Tên du thủ du thực sừng sộ - Rồi ông sẽ biết tay tôi!

Hắn không phải chỉ doạ dẫm đâu, hắn nói thật và hắn làm thật. Hắn rình mò tìm cách trả thù! Thế là sau đó, tên du thủ, du thực lén đốt ruộng của ông triệu phú bảy lần, lén đốt nhà của ông triệu phú bảy lần, và cũng bảy lần chặt chân bò trong chuồng bò của ông triệu phú nữa.

Sau khi trả thù “động trời” như thế, hắn bèn rình xem ông triệu phú có đau khổ không, có than trời, trách đất không, có mắng con chưởi cháu không, có đi trình báo cửa quan không, có vì vậy mà hao hụt tài sản không! Không! Rõ là hắn thấy không tác dụng gì cả.

Hắn đi dò la rồi hắn biết. Ruộng cháy thì ông triệu cho nhân công cày bừa, gieo mạ lại, còn cười cười nói:

- Nhờ tro than nên có lẽ ruộng này năng suất bội thu hơn. Cảm ơn người bạn xấu tính nhé!

Về chuyện bị đốt nhà, ông kêu thợ thầy sửa sang lại, ông chẳng thù hằn ai, mà còn nói:

- Mình ăn tằn, ở tiện, cái cơ ngơi này đã cũ kỹ lắm rồi, đâu cũng đã ngót nghét ba bốn mươi năm. Nhờ bị đốt cháy nên mình, con cái và gia nhân lại được ở trong những căn nhà mới, được xây dựng kiên cố hơn. Cảm ơn người bạn xấu tính nhé!

Về chuyện bị chặt chân bò cũng không làm ông triệu phú buồn, ông cho gia nhân lấy thuốc, cột rịt vết thương, khởi tâm bi, ông nói:

- Tội nghiệp! Mang thân súc sanh để trả nghiệp nặng nề như kéo cày, thồ hàng hóa cũng đã nhiều năm rồi, những con bò này thôi thì cho nó nghỉ ngơi đi.

Rồi ông còn căn dặn gia nhân:

- Các người vẫn cho chúng ăn uống tử tế nhé!Âu cũng là nhờ người bạn xấu tính mà chúng ta làm được một việc phước thiện!

Hết cách! Tên du thủ du thực nghĩ, mình thua rồi! Phải tìm cách trả thù gì để làm cho ông ta đau lòng mới đã nư cơn giận được. Nghe mọi người trong thành phố bàn tán là ông triệu phú ưng ý cái hương thất của đức Phật, nó reo lên trong lòng: Có cách rồi, vậy là ta sẽ đốt luôn cái nhà gỗ chiên đàn của ông “sa-môn đầu trọc” ấy đi!

Nó rình, nó lén và cuối cùng nó đốt được.

Nghe tin, ông triệu phú đến nơi, thay vì buồn, ông hoan hỷ nói:

- Vậy là mình lại có cơ hội tạo thêm công đức. Mình sẽ thiết kế lại, làm lại cho tốt hơn, đẹp hơn nữa!

Dân chúng trong thành, bà con thân thuộc tìm đến chia buồn; nhưng không thấy ông buồn mà lại thấy ông vui. Không ai hiểu. Ông nghĩ, đây là duyên tốt, mình hãy thuyết pháp cho họ nghe, thuyết về những bài pháp mà mình đã học được từ đức Thế Tôn cùng chư vị trưởng lão.

Ông triệu phú nói:

- Bà con không biết đấy thôi! Tiền bạc, tài sản, của cải trên thế gian này không phải là “ta”, là “của ta” đâu. Đức Chánh Đẳng Giác đã từng dạy:

- “Con tôi”, “tài sản của tôi”!
Đó là ưu não của người cuồng si
Trong “ta”, “ta” ấy có gì?
Tài sản, con cái – khác chi mộng trường!”(1)

Tại sao vậy? Vì chúng có thể bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm cướp, bị chiến tranh tan nát, bị nạn vua quan bất chính trưng dựng. Nó còn là cái chỗ cho con cháu tranh dành, anh em ganh tỵ mà sinh ra bất hòa, nồi da xáo thịt. Do thế, mình phải biết, phải tìm cách chôn giấu chúng ở chỗ nào mà chắc bền nhất, không hư hao, không bị các nạn nước, lửa... như trên xâm hại!

Có người hỏi:

- Làm gì có chỗ chôn giấu ấy?

- Có chứ! Bố thí, làm phước, cúng dường chính là chôn của để dành đó. Của để dành ấy nó sẽ trổ phước, sanh phước cho chúng ta rất nhiều đời về sau. Tài sản để dành do bố thí, làm phước, cúng dường thì không có một năng lực nào trên thế gian hủy hoại được, chư vị hãy hiểu như vậy.

Mọi người dường như đã hiểu, họ gật gật đầu; sau đó có người đã bắt chước “chôn của để dành” theo gương của ông triệu phú vậy.

Sau khi hương thất của đức Phật được thiết kế, làm lại, trông đẹp hơn trước, ông triệu phú lại được dịp cúng dường đặc bát bảy ngày đến đức Phật và tăng chúng với tâm vô cùng hoan hỷ.

Tên du thủ du thực lại càng “ứa máu”, giận sôi gan, hắn thủ kín trong lưng một con dao bén, lần này hắn quyết rình mò giết chết ông triệu phú cho bằng được.

Suốt sáu ngày len lỏi, núp chỗ này, trốn chỗ kia ở trong chùa, những chỗ đặc bát, nhưng hắn không có cơ hội ra tay.

Đến ngày thứ bảy, khi đức Phật Kassapa hỏi ông triệu phú có ước nguyện gì, có muốn hồi hướng phước báu này đến cho ai, kẻ đã mất hay người còn hiện tiền sau bảy ngày cúng dường– thì ông thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Duyên sự đệ tử làm lại hương thất và cả việc cúng dường trong suốt bảy ngày qua - đều nhờ vào tâm xấu ác của một người! Cũng nhờ y mà đệ tử chôn giấu không biết bao nhiêu là của để dành cho nhiều kiếp về sau. Vậy, việc hồi hướng phước hôm nay, người đầu tiên mà đệ tử muốn nhắm đến chính là kẻ đã đốt ruộng đệ tửbảy lần, đốt nhà đệ tửbảy lần, chặt chân bò của đệ tử bảy lần; và cuối cùng là đốt hương thất của ngài nữa. Vậy xin đức Thế Tôn và chư tăng rải tâm từ bi, chú nguyện, hồi hướng phước báu đến cho người ấy!

Cuộc lễ thế là hoàn mãn.

Tên du thủ, du thực khi ấy đang lẩn trong đám đông nghe được lời của ông triệu phú, tâm hắn như bị lửa đốt, hắn thốt lên trong lòng:

“- Trời đất thánh thần ơi! Trên thế gian này sao lại có người có tâm địa như hư không, như biển cả vậy kìa? Hóa ra, mình đã trả thù vào cái hư không, cái hư không kia chẳng dính cái gì cả? Hóa ra, bao nhiêu việc xấu ác của mình đều được cái biển tâm của ông ta dung chứa hết? Thế mà mình lại còn là người đầu tiên được ông ta hồi hướng phước báu nữa chứ!”

Nghĩ thế xong, tên du thu du thực đi tìm nhà triệu phú, đến quỳ mọp dưới chân ông, thành khẩn nói:

- Thưa ông chủ! Xin ông chủ tha thứ cho tôi.

- Việc chi vậy?

- Bao nhiêu việc xấu ác mà ông chủ kể với đức Phật, chính tôi là người đã làm việc ấy. Xin ông chủ hãy bỏ quá lỗi lầm ấy của tôi.

Ông triệu phú nhìn “thủ phạm” một lát, ngạc nhiên hỏi:

- Dường như ta chưa từng gặp ngươi, và ngươi cũng chưa từng gặp ta; vậy tại sao ngươi lại kết hận thù với ta như vậy?

- Thưa, có một lần! Y nói - tại nơi chân cổng thành, khi tôi nằm ngủ, ông chủ đã nói: “Nằm ngủ kiểu này, hai chân dính bùn như thế này, rõ là đi rong chơi bất chánh cả đêm hôm qua đây!”

- Ờ, ta nhớ rồi! Vậy là vì câu nói ấy mà người đã thù ta, đã hận ta?

- Đúng vậy!

Ông triệu phú bèn thành khẩn nói:

- Vậy thì xin ngươi hãy tha thứ lỗi lầm ấy cho ta!

- Dạ không dám, thưa ông chủ.

- Thôi, ngươi hãy đi đi!”

Kể đến ngang đó, đức Phật kết luận:

- Vì tạo nghiệp xấu ác ấy, với tâm độc ác, hận thù ấy, tên du thủ, du thực bị sa xuống địa ngục A-tỳ, bị thiêu, bị đốt nhiều chục ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm. Hết khổ địa ngục, do quả còn dư sót, y sanh làm ngạ quỷ mình trăn, phải trườn, phải bò, phải chịu quằn quại, thống khổ trong sự đốt cháy của lửa cho đến khi nào nghiệp ác kia tự tiêu, tự hoại...

Này đại chúng! Hạng người ngu si khi làm các việc xấu ác thường không tự biết đấy là xấu ác, lại còn sung sướng, thích thú nữa chứ! Nhưng đến khi ác báo ấy chín muồi, bị trả quả, thì chúng bị nấu, bị đốt, bị thiêu, bị cháy... nếu có ăn năn, ray rứt, hối hận thì cũng đã quá muộn.

Rồi đức Vô Thương Sư đọc lên một bài kệ:

“- Người ngu ác độc, tội lầm
Vẫn không nhận thức việc làm cuồng si
Nghiệp kia cho quả tức thì
Bị thiêu, bị nấu có chi phải ngờ!”(1)

Qua câu chuyện, ai cũng ghê sợ quả báo ác độc, hận thù; đồng thời, họ vô cùng ngưỡng mộ, tôn kính ông triệu phú Sumaṅgala, đúng là sự xả ly, giải thoát ấy chỉ có ở nơi tâm của một bậc thánh cư sĩ.



(1)01 usabha khoảng 140 cubit, 01 cubit chừng 22 ngón tay.

(2)Du thủ: Rảnh tay, không nghề nghiệp, không làm việc gì cả. Du thực: Chỉ biết rong chơi, ăn chơi.

(1)Pháp cú 62: Puttā matthi dhanammatthi, iti bālo vihaññati, attā hi attano natthi, kuto puttā kuto dhanaṃ!” (Kinh lời vàng, cùng soạn giả).

(1)Pháp cú 136: “Atha pāpāni kammāni, karaṃ bālo na bujjhati, sehi kammehi dummedho, aggidaḍḍho va tappati” (Kinh lời vàng – cùng soạn giả).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 20004)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16475)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11499)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11946)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14894)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 4164)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16453)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12446)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19885)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11568)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567