Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Động Tu Trong Tuyết

09/04/201311:50(Xem: 3279)
Động Tu Trong Tuyết


himalaya_snowĐộng Tu Trong Tuyết
( Cave in the snow )

Tâm Diệu

---o0o---

Năm 1976 Diane Perry, tức ni sư Tenzin Palmo đã ẩn tu trong một hang động hẻo lánh ở độ cao 13.000 bộ trên rặng núi Hy Mã lạp Sơn, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những rặng núi tuyết phủ. Ni sư đã vào động vào lúc 33 tuổi và rời khỏi nơi đây lúc 45 tuổi; ở đó ni sư đã phải chiến đấu với cái lạnh không thể nào tưởng tượng được, với những thú hoang dã, với sự khan hiếm thực phẩm và tuyết lở. Ni sư đã tự trồng hoa mầu để làm thực phẩm và đã ngủ ngồi trong hộp thiền bằng gỗ có kích thước một mét vuông (three-feet square). Ni sư không bao giờ nằm. Mục tiêu của ni sư là đạt được giác ngộ trong thân xác của một phụ nữ.

Năm 1988 ni sư ra khỏi động tu với quyết tâm xây dựng một tu viện Phật giáo cho phụ nữ muốn đi theo con đường giác ngộ giải thoát của đức Phật tại vùng Bắc A? Độ. Từ cuộc sống một nhà tu hành với chi phí $80 một năm, ni sư đã trở nên một nhà lạc quyên trên thế giới, nói chuyện với hàng ngàn dân chúng từ suối nguồn sâu thẳm của tâm hồn ni sư. Dưới đây là cuộc đời và công trình tu tập của ni sư do Vicki Mackenzie kể trong quyển sách "Cave In The Snow" do Bloomsbury London, Anh Quốc xuất bản tháng 10 năm 1998. (Lời người viết)

Diane Perry sinh ngày 30 tháng 6 năm 1943, con gái một người bán cá, đã lớn lên ở khu vực cận Đông thành phố Luân Đôn. Từ khi còn trẻ tuổi?cô đã bận tâm về những điều mà Thái Tử Tất Đạt Đa bên A? Độ (560 BC) bận tâm, khi Thái Tử ra khỏi cung thành thấy cảnh sanh già bệnh chết. Cô muốn biết, làm thế nào để trở nên một con người toàn hảo, làm thế nào để khám phá ra cái chân thật tự nhiên của mỗi chúng ta (true nature). Cô đã tìm câu trả lời?qua các vị giáo sĩ Anh giáo nhưng không được thỏa mãn. Lên 13 tuổi cô cố gắng đọc kinh Thánh Koran, tìm hiểu kinh Thánh Thiên Chúa Giáo, nhưng vẫn không hiểu được mục đích tối hậu của cuộc đời. Lên 15 tuổi cô học yoga và được giới thiệu học A? Độ giáo (Hinduism). Cô vẫn không thỏa mãn hoàn toàn, vì các tôn giáo này vẫn đặt trên nền tảng nhất thần, tức là có một đấng tạo hóa toàn năng sáng tạo ra muôn loài, ngược lại với cái điều cô tin là không có thượng đế "No God".

Năm 18 tuổi, cô tình cờ đọc một cuốn sách Phật giáo "The Mind Unshaken" khi làm thư ký cho một thư viện địa phương, và đã vô cùng thích thú khi thấy rằng những trang sách đã mô tả những ưu tư của Thái tử Tất Đạt Đa giống như những câu hỏi hóc búa mà cô đã thắc mắc khi quán sát dân chúng đông đảo chen chúc trên một chiếc xe bus - vấn đề sanh, già, bệnh và tử. Cô đã tìm ra hướng đi cho cuộc đời và nghĩ rằng cái điểm chính của đạo Phật là "không tham dục" (no desire), tức không khát khao, thèm muốn, không mơ ước hay mong cầu bất cứ một thứ gì. Cô bắt đầu cho đi quần áo, không trang điểm và không đi chơi với bạn trai. Đến tháng 2 năm 1964 cô để dành được 90 Anh kim, đủ cho chuyến đi A? Độ bằng tầu thủy nên quyết định bỏ việc làm thư ký thư viện, xuống tầu thủy làm một cuộc hành trình về phương Đông vào lúc cô vừa được 20 tuổi.

Thế là sau một thời kỳ dài tầm sư học đạo từ khi còn ở Anh Quốc, cô đã chính thức xuống tóc thành nữ tu Phật giáo, mang pháp hiệu Tenzin Palmo và nhập vào tu viện Tashi Jong, một tu viện Phật giáo Tây Tạng,ở Kangra Valley, phía Bắc A? Độ. Cô là phụ nữ Tây phương thứ nhì xuống tóc trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, và là phụ nữ duy nhất trong tu viện với hàng trăm nam tu sĩ, và từ nơi đây cô đã nẩy mạnh ý chí quyết tâm phá vỡ định kiến không cho phụ nữ gia nhập vào hàng tăng lữ tìm đường giác ngộ giải thoát trong nhiều thiên niên kỷ đã qua.

Mặc dầu là thành viên của tu viện nhưng vì là phụ nữ, nên cô không được tham gia vào các hoạt động hàng ngày của tu viện, cô được giao nhiệm vụ thư ký cho văn phòng tu viện, làm việc ban ngày và tới tối phải rời tu viện về ngủ một mình tại nhà trọ ngoài phố. Cảm giác ngăn cách và kỳ thị luôn luôn bủa vây trong tâm hồn cô. "Sau này dân chúng hỏi tôi có cảm thấy cô đơn trong khi ở hang động không. Tôi chẳng bao giờ cô đơn cả. Có chăng là khi tôi ở trong tu viện," cô nói vậy. Cái kỳ thị làm cô khó chịu nhất là họ từ chối không dạy cô pháp bí truyền (esoteric teachings) và những nghi thức lễ lạy thiêng liêng (sacred rituals) - pháp cơ bản của Phật giáo Tây Tạng, bao gồm những phương thức hướng dẫn trực tiếp hành giả đến giác ngộ? cái mà cô muốn biết và muốn học hỏi.

Trong những buổi lễ thần bí cô không được tham dự mà chỉ được phép ngồi ở ngoài nhìn vào. Và khi cô yêu cầu cho được học về những kinh mật tạng, họ đã khước từ. Các tu viện Phật giáo Tây Tạng đều như thế, đều là các tu viện dành riêng cho nam giới (exclusively male club). Các nữ tu sĩ người Tây Tạng thường không biết đọc và biết viết, hầu như chỉ làm việc tại nhà bếp để phục dịch cho các nam tu sĩ. Điều này cũng dễ hiểu là tại sao không có nữ Đạt Lai Lạt Ma, không có nữ Sư Trưởng. Lời nguyện cầu chính của người phụ nữ Tây Tạng là muốn tái sinh thành thân nam. "Chính một vị lạt ma cao cấp đã giảng dạy là phụ nữ thì bất tịnh và có cơ thể thấp kém (inferior body)".

Tưởng cũng nên biết, các tu viện Phật giáo theo truyền thống Nam phương cũng như vậy. Tại Thái Lan, các nữ tu sĩ phải đi giật lùi về phía sau từ các nhà sư nam và không được phép xúc chạm vào người nam, kể cả đụng chạm vào gối ngồi thiền hay tọa cụ. Những ai có ngực lớn phải mặc áo chẽn ép thật sát lại.

Sự đối xử kỳ thị đã thúc đẩy cô tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến sự ghê tởm xác thân phụ nữ. Đức Phật chưa bao giờ phủ nhận khả năng thành Phật của phụ nữ. Chính Ngài nói là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh và sẽ trở thành Phật. Theo Tenzin Palmo thì ý niệm cho rằng phụ nữ là nguy hiểm, là bất tịnh không đúng. Không phải và không do đàn bà tạo ra những vấn đề mà là do tư tưởng ô nhiễm vẩn đục (defilement) của đàn ông. Nếu đàn ông không có lòng thèm muốn và đam mê, thì đàn bà làm sao tạo nên những vấn đề được. "Một lần một vị lạt ma đã chỉ trích tôi có sức cám dỗ (seductive) và tạo nên khó khăn cho ông ta. Tôi đã trả lời ngay vị ấy là "Tôi đã không làm gì ông cả, chính tâm ông đó thôi, " Tenzin Palmo kể như vậy.

Chính trong thời kỳ này ni sư Tenzin Palmo đã đôi lần tự hỏi, liệu có điều huyền bí gì để đưa một người phụ nữ Tây phương, không phải sinh ra trong một gia đình Phật giáo, đến nơi hẻo lánh này. Phải chăng có một sứ mạng nào đó khiến cho cô đến đấy để làm những việc thay đổi hoàn cảnh tu hành cho những nữ tu sĩ Phật giáo?

Do sự đối xử kỳ thị và ước muốn những người nữ tu được thực hành Phật pháp như nam tu sĩ nên cô đã phát thệ nguyện thành Phật trong thân xác phụ nữ dù phải trải qua bao nhiêu kiếp, để có bằng chứng cụ thể.

Giai đoạn tập sự sáu năm đầy thử thách đã trôi qua. Tenzin Palmo quyết định rời tu viện đi Lahoul, một vùng núi ở tận cực Bắc rặng Hy Mã lạp Sơn, sát biên giới A? Độ-Tây Tạng. Ở đó có một tu viện Phật giáo lập nên bởi một đệ tử tái sanh thứ sáu của Khamtrul Rinpoche. Lúc đó là năm 1970 Tenzin Palmo vừa đúng 27 tuổi, và một hành trình mới của đời cô đang bắt đầu.

Giống như bất cứ một cuộc hành trình tầm đạo nào, đường đến tu viện Tayul ở thung lũng Lahoul thật là khó khăn và nguy hiểm. Nơi đây hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài mỗi năm 8 tháng bởi mùa Đông tuyết phủ. Chỉ có mùa hè ngắn ngủi mà Tenzin Palmo phải tính toán cho chính xác để đến nơi trước khi mùa tuyết bắt đầu rơi.

Điểm đến là Tayul, một tòa buiding 300 tuổi làm trú sở cho tu viện, nằm cách thủ phủ?Keylong thuộc địa hạt thung lũng Lahoul khoảng vài dặm. Sau sáu năm di động thuê phòng, bây giờ Tenzin Palmo mới được tu viện sở tại trao cho ở nguyên một căn nhà nhỏ làm bằng đá và bùn khô nằm ở phía sau chùa, vì cô không được phép ở chung trong tu viện với các nam và nữ tu sĩ. Tuy thế cô cũng cảm thấy thoải mái khi nghĩ rằng từ nay sẽ có cơ hội ở riêng một mình để tu hành, và mỗi mùa Đông dài là thời kỳ tốt đẹp nhất để an cư. Nhưng đó là tư tưởng riêng của cô chứ không phải của những người láng giềng. Ở đây có tập quán là vào mùa Đông, mọi người cùng quây quần bữa ăn chiều lần lượt từng nhà một, rồi chơi đùa và bàn tán về những chuyện không tên trong cộng đồng.

Đã tưởng là được yên ổn tu hành và an cư mỗi mùa Đông, nhưng thực tế không diễn ra như vậy, cô vẫn không được sinh hoạt tu hành tại tu viện suốt sáu năm ở đó. Cô chỉ thực hành việc lễ lạy và tọa thiền riêng theo lời sư phụ của cô dạy. Cô rất thất vọng với nếp sống phí phạn thời giờ vào những công việc vui chơi hiếu hỷ hằng ngày như vậy. Mộng ước đầu tiên đã khiến cô dấn thân vào con đường gian nan ở một xứ hoàn toàn xa lạ này là tích cực thanh lọc tâm, để có thể giải thoát khỏi mọi dục vọng tham sân si, càng sớm càng tốt.

Trong suốt mùa Hè và mùa Thu Tenzin Palmo nghỉ ngơi và làm những công việc sửa soạn cho mùa Đông kế như lo dự trữ thực phẩm và củi lửa. Theo truyền thống ở đây, trong mùa thu, sau mùa gặt hái là thời kỳ đặc biệt để mọi người đến từng nhà dân chúng nói những lời chúc tụng và cầu nguyện, xong nhận phẩm vật cúng dường mà thường là thực phẩm rau đậu.

Đời sống như thế kéo dài tới sáu năm. Mỗi năm vào mùa Hè cô cũng trở về tu viện Tashi Jong để thăm viếng và báo cáo lên sư phụ của cô. Trong một dịp về thăm mẹ tại Anh Quốc, trên đường trở lại Lahoul cô ghé thăm một Phật tử hộ đạo tại Thái Lan và vị này cúng dường cô một số tiền để đi Hồng Kông tham dự lễ thọ giới Tỳ kheo ni. Cô không thể chối từ mà phải đi thọ giới, mặc dầu cô cho rằng không có nghĩa gì với cô. Được thọ giới Tỳ kheo ni là một vinh dự lớn lao mà các nữ tu Phật giáo mong ước, không một quốc gia Phật giáo nào ngoài Trung Hoa và Việt Nam cho phép người phụ nữ xuất gia được lên cấp Tỳ kheo. Một lần nữa cô đã là người phụ nữ Tây phương đầu tiên thọ giới Tỳ kheo tại Hong Kong.

Khi trở lại Lahoul, cô nghĩ rằng sáu năm tại nơi đây đã quá đủ. "Tôi đến Lahoul để tham thiền nhập định, chứ đâu phải đến đây để cùng tập hợp bạn bè giải trí!" cô nói và quyết định rời bỏ đây, đi tìm một chỗ nào yên tĩnh hơn. Vì thế cô đã leo lên núi cao phía trên tu viện để kiếm chỗ xây một căn nhà nhỏ và đã tìm được một chỗ thích hợp để an cư, nhưng khi trở về tu viện ngỏ ý với các đồng tu, thì họ cho biết không thể xây căn nhà nhỏ trên núi ấy được vì tu viện không có ngan khoản và đề nghị Tenzin Palmo kiếm tìm hang động mà ở.

Sáng hôm sau, cùng với vị lạt ma tu viện trưởng và một số tu sĩ, cô đã lên núi trở lại kiếm tìm hang động làm nơi ẩn tu.

Rốt cuộc cô và đoàn tùy tùng đã tìm được một hang động trên núi cao hơn 1000 feet nằm phía trên tu viện Gompa, tức có cao độ tổng cộng là 13.200 feet trên mặt biển. Bề rộng khoảng 10 feet và sâu khoảng 6 feet. Bây giờ là mùa hè, chỉ trên ngọn núi còn tuyết phủ, nhưng tám tháng mùa Đông sẽ là tuyết phủ dầy đặc xung quanh đây. Cảnh vật thật yên tịnh, điều này rất quan trọng cho cô để tìm sự yên lặng nội tâm.

Vì hang động cheo leo và hiểm trở nên việc ở cũng như việc di chuyển rất nguy hiểm và khó khăn, do đó không một ai dám giúp cô vì làm như vậy sẽ gián tiếp đẩy cô vào cõi chết. Cô bèn xin phép sư phụ cô và được sư phụ cho phép sau một vài tranh luận ngắn ngủi, nên mọi người mới đồng ý giúp cô.

Thế là Tenzin Palmo đã lật đổ được cái gọi là truyền thống phụ nữ không có khả năng thực hiện sự ẩn tu có từ nhiều thế kỷ qua. Để thưc hiện điều đó, Tenzin Palmo cũng trở nên người phụ nữ Tây Phương đầu tiên theo những bước chân các đạo sĩ vào hang động Tuyết Sơn mưu tìm giác ngộ.

Sau công tác tu bổ thêm để ngăn hơi lạnh và gió thổi bằng gạch và đất bùn, Tenzin Palmo đã đến ở và bắt đầu một lối sống cực kỳ lạ thường. Cô đã 33 tuổi và đây là căn nhà của cô cho đến khi cô 45 tuổi.

Quả thật phải nói rằng, cuộc sống nơi đây cực kỳ khó khăn. Mùa hè tương đối dễ dàng, đi bộ ra suối lấy nước gần đó, mùa Đông, không ra ngoài hang được, phải nấu tuyết làm nước. Về thực phẩm, cô phải thu xếp để nhận các thực phẩm khô, dầu đốt, dầu ăn, muối đường và củi khô ở dưới núi đem lên vào mỗi mùa Hè. Thêm vào đó trồng trọt thêm hoa mầu ở một cái vườn nhỏ trước động. Cô trồng rau cải và đậu peas nhưng chuột núi ăn mất chỉ chừa cho cô loại cải turnip và khoai tây mà thôi. Cô đã khám phá ra là loại cải turnip này rất tốt và bổ dưỡng. Cô thu hoạch nhiều để phơi khô dành cho mùa Đông.

Nói về ăn uống, cô cho biết ăn một bữa vào giữa trưa mỗi ngày như truyền thống của các tu sĩ Phật giáo từ xưa đến nay. Cô vẫn ăn chay từ ngày gia nhập vào hàng ngũ tăng lữ Phật giáo. Thực đơn hàng ngày rất đơn giản, có thể nói ngày nào cũng như ngày nào trong suốt 12 năm. Mỗi bữa ăn gồm cơm, đậu lentil và rau cải turnip khô hay tươi, đôi khi thêm khoai tây. Tất cả ba thứ trộn chung vào nồi áp xuất. "Nồi nấu áp xuất là món vật dụng xa hoa nhất của tôi. Trên một độ cao hơn 13 ngàn bộ như thế này phải nấu nhiều giờ mới chín đậu lentil được." cô nói. Thức uống hằng ngày là sữa bột pha với trà và ăn tráng miệng bằng bánh trái cây khô hay tươi. "Mỗi ngày tôi ăn nửa trái táo và đôi khi thêm một ít trái mơ khô (dried apricot)."

Mười hai năm ăn uống như thế, không có gì thay đổi, không có những thứ xa xỉ như bánh ngọt, chocolats hay cà rem. "Khi tôi rời hang động xuống núi, dân chúng cười khi thấy tôi ăn uống quá ít ỏi, chỉ một nửa trái táo, nửa miếng bánh mì lát mỏng và một ít mứt." cô nói như thế.

Vào mỗi mùa Đông đến, thời tiết cực kỳ lạnh, nhiệt độ dưới thung lũng là 35 độ dưới 0 độ, còn ở đây lạnh hơn rất nhiều. Tuyết phủ dầy đặc bao quanh hang động, tuy thế trong hang lại ấm hơn là căn nhà cô ở sáu năm dưới thung lũng, bằng chứng là cốc nước trên bàn thờ ở đây không đông thành đá trong khi ở dưới kia lại đông đá.

Cô chỉ châm lửa một lần vào mỗi trưa để nấu ăn. Điều này có nghĩa là khi mặt trời lặn, trong hang hoàn toàn không có một chút hơi ấm, thế mà cô vẫn sống như thường. "Khi bạn thực sự hành thiền, tự nhiên cơ thể bạn phát nhiệt và trở nên ấm áp."

Trong động tu của cô, không có TV, không radio, không máy nghe nhạc, không sách báo tiểu thuyết ngoại trừ kinh sách Phật giáo, ngay cả đến giường nằm êm ái cũng không có nốt. Được hỏi tại sao không có giường, cô cho biết không phải vì động tu quá chật hẹp mà chỉ vì cô muốn đơn giản, càng đơn giản chừng nào càng tốt chừng nấy. Cô đã tập ngồi thiền, không cần ngủ, cô nghĩ rằng theo các nhà hiền triết thì ngủ chỉ là phung phí thời gian quý báu. Nếu chúng ta ngủ 8 tiếng mỗi ngày tức là chúng ta mất đi một phần ba quãng đời. Dùng thời gian này vào những việc tu hành để làm lợi cho chúng sinh thì hay biết bao nhiêu. Những thiền giả cho rằng trạng thái yên tịnh và cô quạnh trong hang động là nơi hoàn hảo nhất để thực hành tu tập. (Cô?là người quyết chí tu hành, cho nên những suy nghĩ của cô đều thật là tích cực, tuy nhiên ở trên độ cao 13 ngàn bộ không khí hoàn toàn trong sạch cù?g với sự thiền định là một cách để thân và tâm được an nghỉ hoàn toàn. Do đó đã có nhiều thiền sư đã dùng thiền định gần như để thay thế cho sự ngủ nghỉ mà vẫn đủ để hồi phục sức khỏe - Lời người viết)

Sống trong hang động hoàn toàn cách biệt với thế gian là một điều kỳ bí và thích thú đối với cô. "Tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn dù chỉ trong một giây phút. Nếu có người đến thăm, lẽ dĩ nhiên vào mùa Hạ, thì tốt, nhưng tôi hoàn toàn hạnh phúc khi không có người nào. Trong hang động tôi cảm thấy hoàn toàn an ổn. Đó là cảm giác tuyệt vời đối với một phụ nữ. Tôi đã chẳng bao giờ gài khóa cửa. Đó là điều không cần thiết ở đây".

Phụ nữ thường hay nhút nhát sợ hãi và mất bình tĩnh khi thấy những con thú đi lảng vảng xung quanh. Nhưng Tenzin Palmo chẳng bao giờ sợ bất cứ con thú nào, ngược lại, chúng cũng không sợ hãi cô. Đó cũng là một khía cạnh không bình thường của người đàn bà không bình thường. Với thú vật, thông thường có sự hấp dẫn lực hỗ tương, nhưng Tenzin Palmo thì hoàn toàn không như thế, cô hoàn toàn vô tư, không dính mắc vào những điều ấy.

Trong suốt 12 năm sống trong hang động Tenzin Palmo cảm thấy rất là yên bình hạnh phúc, tuy rằng cũng có đôi lúc phải đối diện với sự chết vì những trận bão tuyết, tuyết lở và thiếu thực phẩm, chẳng hạn như trận bão tuyết và tuyết lở kinh hoàng vào tháng ba năm 1979 kéo dài liên tục bẩy ngày bẩy đêm làm 200 người dân Lahoul chết. Cô nhớ lại giây phút đó và nói rằng: "trận tuyết đó gần như chôn sống tôi" cô phải sống trong bóng tối vì tuyết phủ kín và vì không dám đốt đèn sợ không còn oxygen thở. Cô đã đối diện với cái chết, "tôi tin chắc là tôi sẽ chết, tuy vậy tôi không cảm thấy sợ hãi. Trong giây phút đó tôi đã kiểm điểm lại cuộc đời, những việc làm tốt và không tốt, nhưng có một điều thật trong sáng là tôi rất hạnh phúc khi nghĩ rằng tôi vẫn còn là một tu sĩ Phật giáo."

Đó là những gì bên trong và ngoài hang động, thế còn trong tâm của Tenzin Palmo trong suốt 12 năm ở đây thì sao? Cuộc hành trình đi về nội tâm của cô như thế nào và kết quả ra sao? Cô đã chứng ngộ được cái gì? Đã được tắm mình trong suối nguồn hạnh phúc vô bờ hay trong những ánh sáng vàng rực của bình minh giác ngộ?

Sẽ không một ai biết chắc cái gì mà cô đã kinh qua trong suốt 12 năm ẩn tu, ngoài chính cô. Cô nói: "Thực mà nói, tôi không muốn thảo luận về những điều ấy. Nó như là kinh nghiệm tình dục. Một số người thích nói đến, một số khác thì không. Cá nhân tôi, tôi thấy đó là chuyện riêng tư, chuyện không cần thiết để nói tới."

Khi bị ép hỏi, cô nói thêm: "Lẽ dĩ nhiên khi bạn trải qua quá trình ẩn tu lâu dài bạn sẽ có những kinh nghiệm lớn lao và mãnh liệt khi mà thân của bạn rã ra hay bay bổng lên trời cao. Bạn đạt được trạng thái tỉnh thức kỳ lạ và khả năng trí tuệ sáng ngời." Được đề cập đến cái gọi là thấy xa, thấy như trong giấc mơ (vision), Tenzin Palmo nói rằng: "Cái điểm quan trọng không phải là đạt được cái gọi là thấy xa mà là thấy rõ, (realization). Sự thấy rõ phải như thấy trơ trụi hay thấy trần truồng (bare) chứ không phải cái thấy được kèm theo với ánh sáng hay âm thanh. Chúng ta cố gắng nhìn sự vật như thực (to see things as they really are). Cái nhìn như thự? không phải là sản phẩm của tiến trình suy tưởng hay xúc cảm." (Trong đạo Phật: "thấy được sự thật đúng như nó là" là mục tiêu chính của người tu. Điều này chỉ những người tu hành khi đạt được tới mức độ tâm thức thanh tịnh nào đó mới thấy được (kiến tánh). Tuy nhiên trong quá trình tu hành, tâm càng thanh tịnh thì tự ngã tham sân si càng giảm bớt. Cho nên mới ví như lột vỏ củ hành. Đến khi hoàn toàn giác ngộ như Đức Phật và các thiền sư kiến tánh thì ngay trong sát na giác ngộ, bừng tỉnh, nhận ra rằng đời sống tương đối đều chỉ xuất hiện qua ảo giác. Từ đó, tất cả quan niệm sống cũ đều được thay đổi hoàn toàn. Người đã giác ngộ nhìn chúng sinh bình đẳng và có nhiệm vụ giúp đỡ chúng sinh. - Lời người viết)

Cô cũng cho biết trạng thái an lạc kỳ lạ (bliss) không có gì là lạ, cô xác nhận và nói thêm niềm cực lạc chính là nhiên liệu cho sự tu hành. Bạn không thể kéo dài ẩn tu lâu nếu không có niềm an lạc bên trong. Đó chính là thiền duyệt mà chúng ta thường nghe nói.

Cuối cùng khi được gạn hỏi sau 12 năm nỗ lực kịch liệt tu hành trong đó có ba năm sau cùng không ra khỏ? động, cô đã đạt được thành quả gì? Tenzin Palmo đã nhanh chóng trả lời:

"Không phải được cái gì mà là mất đi cái gì. Nó giống như lột từng lớp một củ hành, cái mà bạn phải làm. Cái truy tìm của tôi là tìm hiểu ý nghĩa của sự toàn hảo."

Đáng lẽ ra Tenzin Palmo ở trong động tu vô hạn định, nhưng vì một trục trặc nhỏ về giấy tờ di trú nên cô bị bắt buộc phải xuất động trở về với thế giới bên ngoài bởi chính quyền sở tại. Khi được tin cô ra khỏi động tu sau 12 năm dài ẩn tu, nhiều người đã đến tìm xem thân xác cô ra sao, kết quả tu hành thế nào? Cô thành Phật chưa? Một người bạn Đức quen biết cô nhiều năm tên là Lia đang sinh sống ở Dharamsala cũng đến tìm gặp. Lia kể về Tenzin Palmo như sau: "Khi tôi hỏi nhiều lần về sự chứng ngộ, Tenzin Palmo chỉ trả lời: "Một điều tôi có thể nói với bạn là - Tôi đã chẳng bao giờ nhàm chán."

Thế là Tenzin Palmo ra khỏi động tu. Theo như người ta kể, cô giã từ động tu Cực Lạc, nơi mà đã ấp ủ cô suốt quãng tuổi thanh xuân trong đời, một cách bình thản không tiếc, không thương, không buồn. Chính cô nói: "chẳng có gì cả, phần lớn những gì đối mặt tôi ở đây đã qua đi. Thời gian ngưng lại, đặc biệt là ba năm cuối cùng qua đi như là mấy tháng." Lúc ấy vào năm 1988 và cô được 45 tuổi.

Sau 24 năm ở A? Độ, trong đầu cô lúc này hoàn toàn không có ý niệm đi đâu. Nhiều người quen ở rải rác khắp nơi trên thế giới đều biên thư hay đánh điện ngỏ ý mời cô đến quốc gia họ. Cuối cùng cô chọn về với gia đình một người bạn Hoa Kỳ ở Italy, thị trấn Assissi, tỉnh hạt Umbria.

Cô ở Assissi năm năm. Trong thời gian này nhiều nơi ở A? Châu và Á Châu, cả Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo mời cô đến diễn thuyết và dạy thiền. Vì thấy các nữ tu sĩ Phật giáo không có chốn tu hành, họ thường phải di chuyển từ trung tâm này đến trung tâm khác, không mấy tốt cho việc tu tập phát triển tâm linh, nên cô quyết định bắt tay vào việc thiết lập một nữ tu viện Phật giáo tại miền Bắc A? Độ. Cô đi diễn thuyết và cổ võ khắp mọi nơi cho dự án này. Cô gặp đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, đức Giáo Hoàng. Cô cũng đã tham dự hội nghị Phật giáo do lời mời của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Dharamsala và giúp tổ chức các hội nghị về nữ tu Phật giáo thế giới hàng năm tại Bồ Đề Đạo Tràng, A? Độ và Lâm Tỳ Ni, Nepal.

Hiện nay sư bà đã 56 tuổi, vẫn đang tiến hành dự án xây dựng nữ tu viện Phật giáo, vẫn nhiệt thành đi diễn thuyết xin tiền ủng hộ. Sư bà làm việc không mệt mỏi. Tài sản của sư bà chỉ vỏn vẹn gồm một cái túi ngủ, một vài quyển sách Phật giáo, một ít dụng cụ cá nhân, và ba bộ áo nhà tu. Sư bà từ chối không dùng tới số tiền quyên góp dành xây tu viện, ngay cả dùng vào chi phí di chuyển. Sư bà không ngần ngại đi khắp mọi nơi, đi xe, đi bộ, đi máy bay, chờ đợi nhiều giờ, có khi nhiều ngày để chuyển tiếp phương tiện, nhưng không bao giờ cau có than phiền, ngoại trừ khi đụng tới vấn đề ăn thịt chúng sinh, sư bà nói mạnh và thẳng thừng lý do tại sao không nên ăn thịt.

Cuộc đời của sư bà là một hiện thực, thế nhưng đã trở nên một huyền thoại thần kỳ. Sư bà trở thành thần tượng (icon) cho các tu sĩ phương Tây. Khi hoàn tất dự án xây dựng nữ tu viện Phật giáo cho những phụ nữ quyết tâm theo con đường giác ngộ trong thân xác phụ nữ như bà, sư bà sẽ trở lại động tu. Sư bà sẽ không trở lại động tu cũ. Cơ thể của sư bà đã già, không thể chịu nổi trong điều kiện sinh sống ở độ cao trên 13 ngàn bộ nữa. Đối với sư bà, động tu tới mang nhiều nghĩa ẩn dụ (metaphorical) hơn là hiện thực, cũng có thể là một túp lều tranh ở một nơi yên tĩnh, không hẳn là ở thật xa. Nơi đó có thể là bất cứ đâu, có thể là phương Đông nơi sư bà có cảm nghĩ là sẽ viên tịch ở đó. Tất cả đều không quan trọng, bất cứ đâu sư bà đi hay sư bà ở đều là nhà. Sư bà chỉ có mục đích trong tâm là tiếp tục theo đuổi con đường giác ngộ giải thoát toàn hảo trong thân xác một người phụ nữ.

PHÂN TÍCH

Trên đây là tóm lược nội dung quyển sách dầy 213 trang nói về cuộc đời và công trình tu hành của một ni sư Phật giáo trong suốt 24 năm tu tập. Một quyển sách dầy như thế mà chỉ tóm lược lại vài trang giấy, chắc chắn không đầy đủ. Người viết biết như vậy nên đã cố gắng trình bầy những nét chính và quan trọng. Phần chi tiết, mong quý độc giả đọc thêm trong nguyên bản tiếng Anh, vừa biết rõ để học hỏi vừa giúp sư bà Tenzin sớm hoàn thành dự án xây cất tu viện Phật giáo dành cho ni giới tại Bắc A? Độ.

Qua quyển sách này, hay nói một cách khác, qua tiến trình tu chứng của sư ba,?chúng ta thấy rằng mục tiêu thiết yếu của cuộc đời chúng ta là giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Sự giác ngộ này có thể đạt được trong thân xác mọi người, bất kể là nam hay nữ. Sư bà đã quyết tâm thệ nguyện thành Phật trong thân xác phụ nữ dù phải trải qua bao nhiêu kiếp, không cần phải tái sanh làm thân nam rồi mới tu thành Phật. (trang 5)

Do quyết tâm như vậy, người tu mới hạ thủ công phu mà việc trước tiên và trên hết là không tham dục, tức không khát khao, không thèm muốn, không mơ ước, không mong cầu hay đòi hỏi bất cứ cái gì, điều gì. Như sư bà khi nhận biết được cái đó là điểm chính của đạo Phật, sư bà bắt đầu xả bỏ, từ vật chất đến tinh thần, từ thân đến tâm, bằng cách cho đi quần áo, không trang điểm, không đi chơi với bạn trai từ lúc 18 tuổi và cho đến nay 56 tuổi vẫn tiếp tục xả bỏ. Khi lập xong tu viện, sư bà cho biết sẽ không làm tu viện trưởng mà sẽ trở về một mình nơi động tu hẻo lánh nào đó. Tài sản hiện nay chỉ gồm có cái túi ngủ, cái nải xách tay, một ít dụng cụ cá nhân như bàn chải đánh răng, một vài quyển sách Phật giáo và ba bộ quần áo nhà tu. (trang 203)

Điều thứ ba là phải nỗ lực kịch liệt và kiên trì tu tập. Trong việc tu tập, không màng tới kết quả và thời gian mà chỉ xem chúng như là một tiến trình. Sư bà Tenzin nỗ lực kịch liệt không ngừng nghỉ trong suốt 24 năm tu tập tại A? Độ và vẫn còn tiếp tục đến bây giờ. Trong suốt 12 năm ở động tu trong tuyết, sư bà ngồi thiền mỗi ngày 4 lần mỗi lần 3 tiếng, bắt đầ? từ 3 giờ sáng và chấm dứt lúc 10 giờ đêm và ăn một bữa duy nhất vào buổi trưa. Sư bà cho biết không phải chỉ có ngồi thiền như vậy mới là tu. Thực hành thiền phải được nỗ lực trong mọi lúc, mọi ngày, không phải một ngày, một tháng, một năm hay một đời mà liên tục mãi mãi. Sư bà cũng cho biết lý do chúng ta không giác ngộ được vì chúng ta lười biếng (trang 171), không có lý do nào khác hơn.

Ngoài các điều trên, việc tu tập cần phải được thực hiện liên tục, ví như gà ấp trứng hay mèo rình chuột. Không thể nay tu, mai đi chơi, rồi mốt lại tu hay vừa làm ăn tính toán lời lỗ trong đầu lại vừa tham thiền. Sư bà ví như nấu ăn, cần phải đốt lửa liên tục ở một nhiệt độ không thay đổi mới chín được. Nếu cứ mở lửa lên một chút rồi lại tắt thì chẳng bao giờ thành (trang 198). Và cũng vì vậy các khóa tu hay an cư định kỳ hay toàn kỳ tại nơi tĩnh mịch là điều cần thiết.

NHẬN ĐỊNH

Cho một cuộc hành trình tâm linh, sự giản dị và chân thật của câu chuyện thuật lại đã làm rung động người đọc từ chủ đề cho đến nhân vật chính của quyển sách. Quả thực quyển sách, qua ngòi bút tài tình của nữ ký giả Vicki Mackenzi đã đưa người đọc đi từ quán bán cá góc một khu phố phía Đông Luân Đôn đến tận chân trời Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ trong một khoảng thời gian khá dài, bắt đầu từ khi nhân vật chánh của câu chuyện 13 tuổi cho đến khi ra khỏi động tu lúc 45 tuổi.

Nhân vật chánh, như bạn đọc biết là Diana Perry rồi là sư bà Tenzin Palmo bây giờ. Sư bà tình cờ biết đến đạo Phật từ khi còn rất trẻ và khao khát muốn biết về một sự gì toàn hảo của con người, một cái gì chân thật trong sáng vô cùng tận của mỗi chúng ta. Sư bà đã lên đường tìm về nội tâm và sau khi trải qua một quá trình tu tập kịch liệt với 24 năm liên tục trong đó có 12 năm ẩn tu tại một động trong tuyết, ai cũng hỏi sư bà đã đạt được cái gì, đã chứng ngộ chưa, sư bà cũng chỉ nói bâng quơ?và có một lần vì được hỏi vặn quá, sư bà đã nói rằng: "Không phải được cái gì mà là mất đi cái gì." hay "Không phải đạt được cái thấy xa (vision) mà là thấy rõ, thấy như thực". Cũng như một vị tổ nói tu hành chỉ cốt ra khỏi vũng lầy, ra khỏi chậu phẩn, thế thôi.

Quả là tuyệt diệu, suốt cả quyển sách những lời nói của sư bà giản dị và chân thật như thế đấy, không mầu mè, không uốn nắn, không bay bướm văn hoa. Như Lục Tổ Huệ Năng có nói nếu bạn biết tâm mình thanh tịnh là bạn đã không thanh tịnh rồi. Biết mình ngộ tất là mình chưa ngộ. Mà thật ra có gì để mà đạt, có gì để mà ngộ. Vốn dĩ đã có sẵn, như vàng ròng có sẵn trong quặng than đen, chỉ cần gột rửa sàng lọc cáu bẩn là vàng ròng hiện ra (Kinh Viên Giác).

Những lời nói của sư bà sau quá trình 24 năm tu tập đều là những kinh nghiệm. Qua lối văn bình dị của Vicki Mackenzie chúng ta không thấy có cảm giác đó là những lời giảng dạy của sư bà. Thế mới hay, mới tuyệt diệu. Không một lời thuyết pháp nào hay hơn thế vì nó đã gói trọn, nó đã thể hiện bằng thân khẩu ý. Thân khẩu ý nhất như: Thân thuyết pháp, khẩu thuyết pháp và ý thuyết pháp đồng bộ. Xin cảm tạ sư bà Tenzin và các nỗ lực của Vicki. Người đọc quyển sách và viết những lời này với mục đích để mọi người biết, tìm mua sách để đọc, để gối đầu giường làm cẩm nang tu hành và cũng là để sách bán chạy cho có tiền xây dựng tu viện Phật giáo dành cho phụ nữ.

LỜI CUỐI

Cả một cuộc đời khổ hạnh tu hành, gối tuyết nằm sương của sư bà chỉ để thực hành lời Phật dạy: "giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử", đạt tới hoàn toàn giác ngộ, điều mà Đức Phật cũng đã trải bao gian khổ mới thân chứng được. Đồng thời, sư bà còn tranh đấu cho nữ tu sĩ tại những phần đất còn phải gánh chịu sự đối xử bất công, tủi nhục, được quyền hưởng sự giảng dạy Phật pháp thậm thâm vi diệu, được theo những đường lối hành trì đặc biệt để thanh lọc tâm, ngõ hầu cũng như nam giới. Với lý tưởng cao đẹp ấy trên vai, sư bà đi khắp nơi xin tiền để xây một nhà tu cho nữ tu sĩ, nơi mà họ sẽ được học những phần thâm diệu của Phật pháp mà trước kia chỉ dành cho nam giới.

Nếu quý độc giả có cảm thông với lý tưởng cao đẹp của bà, trong tâm khởi lên một niềm tùy hỷ, hoặc một niệm quảng tu cúng dường thì xin quí vị liên theo địa chỉ sau đây: Tenzin Palmo C/O Vicki Mackenzie, Bloomsbury Publishing Plc, 38 Soho Square, London WV 5DF

Tên Sách: Cave in the Snow
Tên Tác Giả: Vicke Mackenzi
Nhà xuất Bản: Bloomsbury http://www.bloomsbury.com
On Line Book Store: Amazonhttp://www.amazon.com (List Price $24.95 Your Price: $17.46)
Người Điểm Sách: Tâm Diệu http://www.jps.net/hoasen


-- o0o --

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 20082)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16530)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11565)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12043)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14919)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 4171)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16491)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12470)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19921)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11590)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567