Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Assad

27/04/201113:56(Xem: 3313)
6. Assad

BỊ THIÊU SỐNG
HỒI KÝ RÚNG ĐỘNG THẾ GIỚI VỀ TỘI ÁC VỚI PHỤ NỮ
Souad
Nguyễn Minh Hoàng dịch

6 -
ASSAD

Tôi là người duy nhất chạy đến và kêu lên khi con ngựa trượt chân khiến nó ngã. Hình ảnh đứa em trai luôn hiện hữu trước mắt tôi: nó mặc sơ mi xanh lục với nhiều màu sắc và vì trời có gió nên cái áo cứ bay phất phới phía sau. Nó ngồi trên yên ngựa trông thật đẹp. Tôi yêu nó đến mức hình ảnh nó không bao giờ rời xa tôi.

Hình như tôi còn thương yêu nó nhiều hơn sau cái chết của Hanan. Tôi hoàn toàn phục tùng nó. Tôi không sợ nó, không sợ nó làm tôi đau… Có lẽ vì tôi lớn tuổi hơn nó chăng? Hay vì nó thân với tôi hơn những chị em khác? Tuy thế, nó cũng đã đánh chúng tôi khi cha tôi vắng nhà. Có lần nó đánh cả mẹ tôi. Nó và mẹ tôi cãi nhau, nó nắm tóc mẹ tôi giật mạnh và mẹ tôi khóc…. Tôi trông thấy rất rõ hình ảnh hai người lúc ấy nhưng tôi không nhớ nguyên nhân dẫn đến cuộc cãi vã đó. Đối với tôi, tập hợp các hình ảnh và tìm ý nghĩa của chúng luôn là một việc rất khó khăn. Như thể ký ức về quãng đời sống trên đất nước Palestine của tôi đã phân tán thành nhiều mảnh nhỏ khi tôi gây dựng cuộc sống mới tại châu Âu.

Ngày nay, điều đó nghe có vẻ khó hiểu, sau những gì em trai tôi đã làm, nhưng hồi ấy, một khi cơn khiếp đảm đã qua đi, tôi chắc chắn không hình dung được rằng Hanan đã chết. Chỉ mãi đến hôm nay, khi thấy cảnh tượng ấy vụt hiện ra trong ký ức, tôi mới nhận ra là mình không thể nghĩ đến chuyện gì khác. Bằng cách nối kết các sự việc lại với nhau một cách có logic và sau một khoảng thời gian đủ xa. Một mặt, cha mẹ tôi không có mặt ở đó, vì mỗi lần có một bi kịch xảy ra, nghĩa là mỗi khi có một người con gái bị gia đình khép vào tội chết thì duy nhất kẻ được chỉ định thi hành bản án là có mặt ở nhà. Sau đó, tôi không bao giờ gặp lại Hanan. Không bao giờ. Buổi tối hôm ấy, Assad đã nổi điên lên, cảm thấy nhục nhã vì không được ở bên vợ khi vợ sinh con, vì thái độ của bố mẹ vợ. Có phải tin về cái chết của đứa con mà Assad đang mong đợi đã đến từ chiếc điện thoại ấy? Hanan có nói sai điều gì với Assad không? Tôi không biết. Nhưng hành động hung bạo đối với đàn bà con gái trong nhà cha mẹ tôi và trong làng nói chung vẫn thường xuyên tái diễn và là chuyện cơm bữa. Và tôi quá đỗi yêu thương Assad. Cha tôi càng căm ghét đứa con trai ấy bao nhiêu, thì tôi càng yêu quý thằng em trai duy nhất ấy bấy nhiêu.

Tôi còn nhớ ngày nó lấy vợ như một ngày lễ tuyệt vời. Có lẽ đó thực sự là kỷ niệm vui duy nhất trong quá khứ đầy ắp những chuyện điên rồ ấy. Dạo đó tôi khoảng mười tám tuổi và đang già cỗi. Tôi thậm chí đã từ chối tham dự một lễ cưới khác vì biết rõ bọn con gái sẽ chế nhạo tôi ra mặt. Những lời nhận xét ác ý, những cú huých khuỷu tay, những tiếng cười không mấy tự nhiên của chúng khi trông thấy tôi đi qua. Và tôi đã khóc suốt buổi. Nhiều khi dắt đàn cừu đi trong làng, tôi cũng cảm thấy xấu hổ và sợ ánh mắt người khác. Tôi chẳng hơn gì bà hàng xóm có cái đốm trong tròng mắt mà chẳng ai thèm ngó đến. Mẹ đã cho phép tôi không đi dự tiệc cưới của con bé hàng xóm, bà đã hiểu nỗi thất vọng của tôi. Chính lúc ấy, tôi đã đám nói thẳng với cha tôi: “Nhưng đó là lỗi của cha! Cha để con đi lấy chồng đi chứ!” Ông vẫn không muốn nghe và tôi nhận mấy cú bạt tai: “Phải đợi chị mày lấy chồng trước đã! Thôi xéo ngay đi! ”. Tôi đã nói với ông một lần và không có lần thứ hai.

Nhưng đến lễ cưới của em tôi thì cả nhà đều vui mừng và tôi còn vui hơn nữa. Cô dâu tên là Fatma và tôi không hiểu tại sao cô ta lại đến từ một gia đình xa lạ, từ một làng khác. Có phải vì ở quanh chúng tôi không có gia đình nào có con gái đến tuổi lấy chồng không? Cha tôi đã thuê ôtô để đi đón dâu, một xe cho cánh phụ nữ và một xe cho cánh đàn ông, và xe chở đàn ông đi trước, dĩ nhiên phải như thế.

Phải vượt qua nhiều dãy núi, và mỗi lần qua một khúc quanh, cánh phụ nữ lại reo mừng tạ ơn Đấng Tối cao đã phù hộ để xe không bị lăn xuống vực, đường đi vô cùng nguy hiểm! Cảnh vật chẳng khác nào sa mạc, đường không được trải nhựa chỉ có đất vừa đen vừa khô và bánh của chiếc xe chở cánh đàn ông tạo thành một đám mây bụi mù phía trước chúng tôi. Nhưng tất cả đều nhảy múa. Tôi có một cái trống cơm kẹp giữa hai đầu gối và tôi vỗ trống theo nhịp với những tiếng hò reo của phụ nữ. Tôi cũng nhảy, với chiếc khăn trùm đầu, rôi rất giỏi về khoản đó. Mọi người ai cũng nhảy múa, ai cũng vui vẻ, chỉ riêng bác tài xế là không!

Lễ cưới của em trai tôi to hơn của chị gái. Vợ Assad trẻ, đẹp, dáng người nhỏ bé, và có nước da rất sậm. Cô ta không còn là trẻ con mà suýt soát tuổi với Assad. Trong làng, ai cũng có vẻ hơi chế nhạo cha mẹ tôi vì Assad đã “buộc” phải cưới một đứa con gái thuộc độ “chín” và lại là một đứa con gái lạ. Lẽ ra thì phải cưới một đứa trẻ tuổi hơn, cưới một đứa con gái bằng tuổi là một chuyện không bình thường! Và tại sao lại đi tìm ở một nơi khác? Nhưng Fatma là một đứa con gái rất đẹp và may mắn là có đông anh em trai. Cha tôi đã bỏ ra rất nhiều vàng để hỏi cô ta cho Assad. Cô ta có rất nhiều đồ trang sức.

Lễ cưới kéo dài suốt ba ngày, ngày nào cũng nhảy múa và đãi tiệc tưng bừng. Trên đường về, tôi còn nhớ bác tài xế đã dừng xe giữa đường và chúng tôi lại tiếp tục nhảy múa. Tôi còn thấy hình ảnh tôi trong chiếc khăn trùm và vỗ chiếc trống cơm, lòng tôi hân hoan và tôi tự hào về Assad. Đối với chúng tôi nó được xem như là Chúa Trời, và thật lạ, tình yêu thương mà tôi dành cho nó không chịu rời xa tôi. Nó là người duy nhất mà tôi không thù ghét được, cả những khi nó đánh tôi, và cả những khi nó đánh vợ nó, cả những khi nó trở thành kẻ sát nhân.

Trong mắt tôi, nó là Assad ahouta, Assad cao quý, Assad em trai tôi. Assad ahouta. Mỗi khi ra đồng làm việc, không bao giờ tôi quên chào nó: “Chào em trai Assad!” Một sự tôn sùng thực sự. Khi còn bé, chúng tôi đã chia sẻ với nhau nhiều thứ. Bây giờ nó lấy vợ, nó sống với vợ trong ngôi nhà của chúng tôi, tôi lại tiếp tục phục vụ nó. Nếu thiếu nước nóng để tắm, tôi lập tức đi đun nước, tôi lau chùi bồn tắm, tôi giặt giũ và sắp sẵn quần áo cho nó. Nếu nó cần tôi sẽ khâu vá trước khi mang để vào chỗ cũ.

Thông thường, có lẽ tôi không nên yêu thương và chăm sóc nó với tình cảm như vậy. Vì nó cũng giống hệt những người đàn ông khác. Cưới nhau chưa được mấy ngày, Fatma đã bị Assad đánh và chạy về nhà cha đẻ khiến Assad bị mất mặt. Và trái với thông lệ, cha mẹ Fatma không buộc con gái quay lại nhà chồng ngay trong ngày hôm ấy. Có lẽ họ giầu có hơn, tân tiến hơn chúng tôi hoặc có lẽ họ quá yêu con gái họ vì Fatma là con gái duy nhất của họ, tôi cũng không biết nữa. Tôi cho rằng những bất đồng giữa cha tôi và Assad bắt đầu từ những chuyện đó. Em trai tôi muốn lấy cô gái ở một làng khác, nó bắt cha tôi phải bỏ ra rất nhiều vàng và kết quả là cô vợ ấy đã bị sẩy thai thay vì sinh ra một đứa con trai và cô ta lại còn bỏ về nhà cha mẹ để cả gia đình chúng tôi mang nhục! Tôi không được tham dự vào những cuộc họp gia đình, hiển nhiên là thế, và trí nhớ tôi cũng không lưu giữ điều gì để chứng minh cho những suy diễn của tôi hôm nay, nhưng tôi nhớ rất rõ việc cha tôi bê sọt đá lên sân thượng và lần lượt ném hết hòn đá này đến hòn đá khác xuống đầu Assad. Và tôi vẫn nhớ cái tủ mà em trai tôi mang ra chặn cửa phòng nó để ngăn không cho cha tôi vào. Có lẽ Assad định giảnh cả ngôi nhà này cho mình và nó xử sự như thể nó đã là chủ nhà rồi. Tôi cho là cha tôi không muốn Assad có một quyền lực gì trong nhà. Ông không muốn bị nó tước mất quyền hành và chiếm đoạt tiền bạc của mình. Cha tôi thường bảo Assad:

- “Mày vẫn còn là một đứa trẻ con!”

Càng tự tin và càng được chúng tôi nuông chiều, Assad càng chống đối quyết liệt hơn. Nó là vua trong nhà, và ở đất nước chúng tôi, không bao giờ được nói với một người đàn ông rằng anh ta vẫn là một đứa trẻ con. Đó là một câu nhục mạ hết sức nặng nề! Lúc ấy Assad đã hét lên:

- “Nhà này cũng là nhà tôi!”

Cha tôi không chịu được câu nói ấy.

Trong làng mọi người vẫn tự hỏi không biết Fatma đã làm điều gì sai quấy, tại sao cô ta lại bỏ về nhà cha mẹ đẻ thường xuyên như vậy? Hay là cô ta đã bị bắt gặp với một người đàn ông khác? Trong trường hợp như thế những lời ngồi lê đôi mách lan đi rất nhanh. Người ta kháo nhau đủ chuyện xấu về Fatma, nhưng không có chuyện nào đúng cả. Fatma là một cô gái dễ thương. Nhưng khổ một nỗi, nếu ai đó nói, dù chỉ một câu: “Con bé ấy hư hỏng đấy”, thì đối với cả làng, Fatma sẽ là đứa hư hỏng và thế là xong đời cô ta, người ta sẽ có cái nhìn không tốt về cô ta.

Mẹ tôi rất khổ sở vì những chuyện ấy. Thỉnh thoảng bà cũng gắng sức làm cho cha tôi bớt giận khi thấy ông cứ gây sự với Assad.

- “Sao ông lại làm như thế? Để cho nó yên!

– Tao đang muốn giết nó đây! Mày mà tìm cách bảo vệ nó thì cứ liệu hồn!”

Tôi đã trông thấy Fatma nằm dưới đất và bị Assad giơ chân đá vào lưng. Một hôm, tôi trông thấy một bên mắt cô ta đỏ quạch còn mặt thì tái xanh. Nhưng không ai nói hay làm gì được. Bị kẹt giữa thói quen hung hãn của người cha và cậu em trai, chúng tôi chỉ còn cách tìm chỗ trốn để không bị ăn đòn.

Không biết Assad có yêu vợ nó không? Tình yêu đối với tôi vào dạo ấy là một điều huyền bí. Ở đất nước tôi, người ta chỉ nói đến chuyện làm đám cưới chứ không nói đến tình yêu. Chỉ có chuyện vâng lời và phục tùng tuyệt đối chứ không có tình yêu nam nữ. Chỉ có quan hệ tình dục bắt buộc giữa một cô gái còn trinh được người chồng mua về. Nếu không như thế, sẽ bị bỏ quên hoặc phải chết. Vậy tình yêu ở đâu?

Tuy nhiên, tôi cũng nhớ trong làng có một người phụ nữ sống cùng chồng và các con trong một ngôi nhà đẹp nhất. Mọi người đều biết đến họ vì sự xa hoa của ngôi nhà và sự giàu có của họ. Con cái của họ đều được đến trường. Đó là một đại gia đình vì các thành viên chỉ lấy người trong họ. Nhà họ chỗ nào cũng lát gạch vuông. Thậm chí cả lối đi bên ngoài cũng lát gạch vuông. Với lối đi ở những ngôi nhà khác, người ta chỉ rải đá răm hoặc hoặc cát, đôi khi có tráng một lớp nhựa đường. Nhưng ở đây lại có một lối đi rất đẹp với hàng cây trồng phía trước. Họ có một thợ làm vườn phụ trách việc chăm sóc khu vườn và khoảng sân có hàng rào sắt uốn sáng lóa như vàng. Đứng từ xa người ta đã phải chú ý đến ngôi nhà. Ở đất nước tôi, tất cả những gì sáng lóa đều được ưa thích. Ai mà có một chiếc răng vàng thì được coi là giàu! Và đã giàu thì phải khoe ra. Ngôi nhà ấy rất hiện đại, hoàn toàn mới, và bên trong trông rất tráng lệ. Lúc nào cũng có hai, ba chiếc ôtô trước nhà. Tôi không bao giờ đi vào trong đó, dĩ nhiên là thế, nhưng mỗi lần dắt đàn cừu ngang qua, tôi đâm ra mơ mộng. Người chủ ngôi nhà tên là Hassan, một người cao to, nước da ngăm đen, vẻ sang trọng. Vợ chồng nhà ấy rất gắn bó với nhau, lúc nào cũng ở bên nhau. Chị vợ đang mang thai đôi. Nhưng không may, việc sinh nở không được vuông tròn, hai đứa bé song sinh được cứu sống nhưng thai phụ lại chết. Cầu xin linh hồn chị được yên nghỉ vì chị còn rất trẻ. Đó là đám tang duy nhất tôi được nhìn thấy trong làng. Điều khiến tôi cảm động và ngạc nhiên là tất cả người thân trong gia đình đi sau chiếc cáng khiêng người quá cố đều khóc, anh chồng khóc nhiều hơn cả. Do quá đau buồn, trong lúc đi sau xác vợ, anh ta đã xé rách nhiều áo sơ mi dài truyền thống. Bà mẹ cũng xé nhiều áo váy của bà. Tôi thấy hai bầu vú để trần của người đàn bà có tuổi ấy rơi thõng xuống chỗ bụng bà ta, giữa những mảnh áo bị xé rách. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng nào buồn như thế. Người phụ nữ được mang đi chôn kia từng được thương yêu, cái chết của chị ta đã khiến cả gia đình, và cả mọi người trong làng phải thương tiếc.

Có phải tôi đã có mặt trong số những người cùng làng đi xem đám tang hay tôi đã nhìn thấy quang cảnh đám tang từ trên sân thượng nhà tôi? Có lẽ từ trên sân thượng, vì hồi ấy tôi còn quá bé. Nhưng tôi đã khóc. Có rất đông người. Họ đi chầm chậm trong làng. Và người đàn ông mà tôi nhìn thấy đang tỏ ra đau đớn, đang xé áo sơ mi của anh ta, và tôi không bao giờ quên người đàn ông ấy. Với những tiếng gào thét vì tình yêu dành cho vợ mà anh ta trở nên đẹp vô cùng.

Đúng là một người đàn ông chân chính và đáng nể.

Ông bà ngoại và cậu tôi cũng ở trong làng. Và ông ngoại tôi (tên ông là Mounther) lúc nào cũng chải chuốt. Vóc người ông cao lớn, cậu tôi cũng vậy, ông luôn cạo râu tươm tất, ăn mặc chỉnh tề, cả khi mặc y phục truyền thống. Lúc nào ông cũng có tràng hạt trên tay và những ngón tay dài lần hết hạt này tới hạt khác. Thỉnh thoảng ông đến nhà ngồi hút ống điếu với cha tôi và hai người có vẻ rất tâm đắc. Nhưng một hôm, mẹ tôi bỏ nhà về ngủ ở nhà ông bà vì bị cha tôi đánh. Bà bỏ chúng tôi ở lại một mình với ông ta. Ở đất nước chúng tôi, khi bỏ đi như thế, người phụ nữ không thể mang theo con cái. Dù gái hay trai, chúng vẫn phải ở lại với cha chúng. Và tôi càng lớn lên, cha càng hay đánh mẹ, mẹ tôi càng hay bỏ về nhà ông bà. Chính ông ngoại đã phải bắt mẹ tôi quay trở lại. Đôi khi mẹ tôi bỏ đi suốt một tuần, đôi khi chỉ một ngày hoặc một đêm. Có lần, bà đã bỏ đi ít nhất gần một tháng và ông ngoại tôi không còn muốn nói chuyện với cha tôi nữa.

Tôi tin rằng nếu mẹ tôi có chết đi thì bà cũng không bao giờ có được một đám tang như người phụ nữ ấy và cha tôi cũng sẽ không kêu khóc và xé rách áo như ông Hassan. Ông không yêu mẹ tôi.

Lẽ ra tôi phải tự thuyết phục mình rằng ở đất nước tôi, hoặc chính xác hơn trong gia đình tôi, tình yêu là một khái niệm không hề tồn tại. Rốt cuộc, tôi chỉ có mỗi đứa em trai để yêu thương mặc dù nó hung hăng, hăng, và thỉnh thoảng hay nổi khùng vô cớ. Các chị tôi cũng yêu thương nó. Chị Noura không còn ở nhà, chị Kainat cũng như tôi, chị che chở bênh vực nó, và mỗi khi trông thấy nó cưỡi ngựa là chị vỗ tay tán thưởng.

*
Trừ hai đứa em còn bé chưa thể nghĩ tới chuyện lấy chồng, ở nhà chỉ còn lại chúng tôi. Hai gái già. Về phần chị Kainat, tôi có cảm tưởng chị đã cam chịu số phận. Chị không xấu, nhưng… không đẹp lắm và không tươi cười. Chị khác hẳn tôi. Cùng là hai đứa con gái nhà quê ăn mặc hơi xoàng xĩnh, tóc tai không được chải chuốt… nhưng tôi nhỏ người và thon thả hơn, còn chị thì to ngang với bộ ngực quá khổ. Ở đất nước chúng tôi, đàn ông thích phụ nữ chắc da chắc thịt nhưng không chấp nhận một bộ ngực quá to. Chị không có nét gì quyến rũ. Chị cảm thấy buồn vì chuyện đó nhưng không thể trở nên đẹp hơn. Chị cũng ăn những thức ăn như tôi nhưng chị lại phì ra, đó đâu phải là lỗi ở chị. Và dù thế nào đi nữa, cả chị và tôi đều không thể nào làm cho mình đẹp hơn những gì mà Đấng Tối cao đã tạo ra. Mà làm bằng cách nào và với những gì? Không áo đẹp, lúc nào cũng mặc chiếc quần vải màu trắng hoặc xám, không trang điểm, không đồ trang sức. Và luôn bị nhốt như hai ả gà mái già, mỗi lần lùa đàn cừu ra khỏi nhà, chúng tôi lại phải đi nép vào tường, đếm từng bước, cắm mặt xuống đất.

Nếu chị Kainat không còn hy vọng gì và chắn mất lối đi lấy chồng của tôi, thì tôi biết, dù sao vẫn có một người đàn ông đến hỏi tôi. Mẹ tôi bảo: “Bố thằng Faiez đã đến nhà ta để hỏi mày cho con trai lão. Nhưng lúc này, chưa thể bàn đến việc đám cưới được. Phải chờ chị mày xong đã.”

Từ đó, tôi luôn tưởng tượng rằng anh đang đợi tôi, và rằng anh đang sốt ruột vì sự từ chối của cha mẹ tôi.

Em trai tôi biết anh. Họ ở đối diện nhà chúng tôi phía bên kia đường. Họ không phải là nông dân như chúng tôi nên họ không làm việc ngoài vườn nhiều như chúng tôi. Cha mẹ anh sinh được ba người còn trai và chỉ còn Faiez là chưa lấy vợ. Nhà ấy không có con gái, vì thế không cần phải xây tường bao xung quanh mà chỉ có một hàng rào rất đẹp và cổng không bao giờ khóa. Tường nhà màu hồng và chiếc ôtô lúc nào cũng đỗ trước cửa nhà có màu ghi.

Faiez làm việc trong thành phố. Tôi không biết anh làm nghề gì nhưng tôi nghĩ anh làm việc trong một văn phòng nào đấy như cậu tôi. Dù sao đi nữa, anh trông cũng khá hơn chồng của chị cả tôi nhiều. Hussein lúc nào cũng phải mặc quần áo công nhân, không bao giờ sạch sẽ và người Hussein có mùi hôi.

Faiez đó là sự thanh lịch, với một chiếc ôtô bốn chỗ rất đẹp vẫn nổ máy đều đặn mỗi sáng.

Thế là tôi bắt đầu rình mò chiếc ôtô để được trông thấy Faiez. Vị trí quan sát tốt nhất là trên sân thượng, nơi tôi vẫn lên giũ tấm thảm lông cừu, hái nho và phơi quần áo. Chỉ cần cẩn thận một chút là lúc nào tôi cũng có thể tìm ra một công việc gì đó để làm trên ấy.

Trước tiên, tôi nhận thấy bao giờ anh cũng đỗ xe ở cùng một chỗ, cách cửa nhà mấy bước. Do không thể đứng quá lâu trên sân thượng để đoán xem mấy giờ anh ra khỏi nhà nên phải mất mấy ngày tôi mới biết được là anh đi làm vào khoảng bảy giờ sáng, lúc đấy tôi rất dễ tìm ra một công việc gì đó để làm trên sân thượng.

Lần đầu tiên nhìn thấy anh, tôi đã gặp may. Tôi nhanh tay cọ rửa chuồng gia súc rồi đi lấy bó cỏ thật khô mang về cho con cừu cái đang ốm và sắp trở dạ. Tôi đang đứng cách đó hai ba bước với bó rơm trong tay thì anh bước ra. Trông cũng lịch sự như cậu tôi, mặc âu phục, đi giày buộc dây rất đẹp với hai màu đen và nâu nhạt, tay xách cặp đựng giấy tờ, tóc thật đen, nước da ngăm đen và điệu bộ oai vệ.

Tôi cúi đầu, giấu mặt trong đống rơm. Tôi lắng nghe bước chân anh cho đến lúc anh ra đến ôtô, rồi tiếng cửa xe đóng sầm lại, tiếng máy nổ và tiếng lốp xe lăn trên sỏi kêu lạo xạo. Tôi chỉ dám ngẩng đầu lên khi chiếc xe đã đi xa và tôi đợi cho đến khi nó khuất hẳn. Tôi nghe tim đập rộn ràng trong lồng ngực. Hai chân tôi run run. Và tôi tự nhủ: “Mình muốn có người đàn ông ấy làm chồng mình. Mình yêu anh ấy. Mình muốn anh ấy, mình muốn anh ấy…”.

Nhưng làm thế nào? Làm thế nào để van xin anh đích thân đến xin cha tôi quyết định cho làm lễ cưới? Trước tiên phải nói chuyện với anh như thế nào? Con gái không được nói chuyện với con trai. Cũng không được nhìn thẳng vào mặt người ta. Không được tìm cách đến gần. Dù người đàn ông ấy có muốn hỏi mình làm vợ đi chăng nữa thì anh ta cũng không phải là người có quyền quyết định. Người có quyền quyết định là cha tôi, bao giờ cũng là ông ấy và ông ấy sẽ giết tôi nếu biết tôi đã dềnh dàng ôm bó rơm đứng lại một phút trên đường để lôi kéo sự chú ý của Faiez.

Ngày ấy, tôi không dám hy vọng nhiều, nhưng tôi chỉ muốn anh nhìn tôi và biết tôi đang đợi anh. Thế là, tôi quyết định làm bất cứ điều gì đó để được lén lút gặp anh và nói chuyện với anh. Tôi nhất định liều một phen, dù biết rằng nếu bị bắt gặp, tôi có thể sẽ bị ném đã hoặc đánh bằng gậy cho đến chết. Tôi không muốn đợi hết tháng này sang năm nọ nữa, không muốn đợi đến ngày chị Kainat rời nhà chúng tôi. Như thế thật bất công. Tôi không muốn bị già thêm nữa, không muốn thành chủ đề đàm tiếu của cả làng. Tôi không muốn đánh mất hy vọng được đi cùng một người đàn ông đến một nơi nào đó, được thoát khỏi sự đàn áp hung bạo của cha tôi.

Mỗi sáng và mỗi chiều, tôi sẽ lên sân thượng để ngóng đợi người đàn ông trong mộng của tôi, đợi cho đến lúc anh ngước mắt nhìn tôi và ra hiệu cho tôi. Bằng một nụ cười. Nếu không như thế, tôi chắc chắn anh sẽ đi hỏi một đứa con gái khác trong làng hoặc ở làng khác. Và sẽ có một ngày, tôi sẽ nhìn thấy một phụ nữ thay tôi được lên chiếc ôtô ấy.

Cô ta sẽ cướp Faiez của tôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10640)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6981)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 37579)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26676)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22924)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 16045)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15794)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18499)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5233)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 22270)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]