Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nhận định về sự bình đẳng trong Phật giáo

08/04/201319:51(Xem: 3677)
Vài nhận định về sự bình đẳng trong Phật giáo


Vài nhận định

về sự bình đẳng trong Phật giáo

Thích Lệ Thọ

Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới, nhằm đúc kết những nhận định khách quan với lòng mong mõi là đáp ứng được phần nào về mặt nhận thức cho giới học giả. Trong khi chờ đợi cộng đồng Phật giáo thế giới tìm ra câu trả lời đúng đắn nhất qua logic, Lịch sử, Khảo cổ, Ngôn ngữ học… và đặc biệt là sự thể nghiệm tâm linh của Ni đoàn!

Đầu tiên chúng ta hãy nhận định đức Phật là người như thế nào? Nhà Khoa học, Tâm lý học, sử học, Toán học, Y học, nhà Minh triết…cộng tất cả những cái ấy lại cũng chưa đủ để chỉ cho bậc Toàn Giác như Ngài! Vì những gì Ngài nói ra đã hơn 2600 năm: “trong vũ trụ này không phải chỉ có trái đất là có sự sống và mầm sống là do duyên sinh…”, vậy mà mãi cho tới ngày nay các nhà khoa học và ngành không gian của con người mới phỏng đoán được ngoài trái đất này còn có vô số sự sống khác: “Hai nhà khoa học Charles Lineweaver và Tamara Davis, Đại học New South Wales ở Sydney (Australia) mới đưa ra phỏng đoán trên sau khi dùng phương trình Drake để tính xác suất của sự sống trong vũ trụ. Theo đó, ở các hành tinh có điều kiện tương tự trái đất, sự sống có thể đã hình thành và đang phát triển song song với chúng ta. Và như lời đức Phật nói sự sống này là Duyên sinh: “Jeffrey Bada và Antonio Lazcano, Đại học California ở San Diego (Mỹ), đã nhận định những mầm sống đầu tiên trên trái đất có lẽ đã không hình thành ở điều kiện nhiệt độ rất cao như người ta vẫn tưởng, mà ở nhiệt độ giá lạnh dưới các lớp băng dày cách đây hàng tỷ năm. Và sự sống cũng không chỉ xuất hiện một lần, mà nhiều lần…” (vnexpress 16/6/2002) Các nhận định trên cho chúng ta suy luận tiếp, với trí tuệ siêu việt của Đức Phật đã vượt xa các khối óc khoa học thượng thặng ngày nay! Như vậy, chắc chắn rằng trong đời sống của Ngài không có hành động dư thừa và phát biểu thiếu thận trọng mà đặc biệt là đưa ra các giới điều cho hàng đệ tử được thanh tịnh thân và tâm! Nên chuyện chấp nhận cho nữ giới xuất gia làm Tỳ khoe Ni là cả một vấn đề nan giải trong bối cảnh của xã hội Ấn Độ lúc đó, khi phải trở thành đời sống “khất sĩ”, phải đối mặt với thú dữ, cướp bóc, thời tiết khắt nghiệt…và đặc biệt là phải đưa ra những giới cấm nào cho thích hợp để Tăng Ni sinh hoạt chung một đoàn thể mà không phát sinh tình cảm! Vì nó là bức tường ngăn cản bước chân của Hành giả tiến đến giải thoát. Chỉ đặt chừng ấy vấn đề thôi thì đủ thấy cả một tấm lòng “bi mẫn” và trí tuệ siêu việt để giải quyết vấn đề chứ không đơn giản như bao nhiêu học giả đã lấy lăng kính của thế kỷ 21 soi ngược lại trước Công nguyên, rồi cho rằng đức Phật thiếu Từ bi thiếu bình đẳng giữa Tăng và Ni. Đó là những chi tiết hết sức quan trọng, nhưng có bao giờ các học giả tự đặt mình vào hoàn cảnh Nữ Khất sĩ? chứ đừng nói là đã trải qua đời sống Tu sĩ! Nên “Diana Y. Paul giải thích giới luật: “Bản văn đầu tiên được dịch dưới đây trình bày sự lệ thuộc của Ni đoàn đối với Tăng đoàn, cho thấy Ni đoàn bị mất đi quyền tự trị, và bị tước đoạt quyền lực để định nghĩa những bổn phận tôn giáo mà nữ giới phải thực hiện. Không giống như hệ thống tổ chức bên Thiên chúa giáo, các ma-sơ không bị lệ thuộc bên các linh mục. Chư Ni Phật giáo trong xã hội Ấn Độ cổ đại bị phụ thuộc vào chư Tăng, cơ cấu tổ chức của chư Ni cũng lệ thuộc hệ thống tổ chức của chư Tăng. Họ được chư Tăng trực tiếp hướng dẫn trong các buổi họp của nhị bộ Tăng”. (Buddhismtoday-Quan điểm Phật giáo về nữ giới-so sánh luật Tỳ Kheo và Tỳ Khoe Ni dựa trên giới bổn tiếng Hoa-Liên Hiếu dịch)

Chúng ta thử đặt lại vấn đề tại sao đức Phật đã chấp nhận phụ nữ làm Tỳ kheo Ni mà lại cho họ giữ nhiều giới hơn Tăng? Sao Ngài lại bất công đến thế? Trong khi Ngài đang kêu gọi xã hội lúc bấy giờ xoá bỏ giai cấp, vậy mà Ngài lại thiết lập giai cấp trong đoàn thể của Ngài? Nên Susan Murcott phát biểu: “Tăng đoàn quản lý Ni đoàn, các giới luật và quy tắc của chư Ni lại nghiêm khắc hơn chư Tăng. Mục đích của các giới nghiêm khắc này là để kềm chế bản chất ngang ngạnh của phụ nữ và để giành quyền hành tuyệt đối cho chư Tăng. Các vấn đề vừa nêu trên, Tỳ-kheo-ni In Young Chung nhận định: “Mặc dù, hầu hết các học giả và các nhà nghiên cứu Phật giáo đều tán thành Tỳ-kheo-ni dưới quyền Tỳ-kheo Tăng là do có quá nhiều giới thêm vào cho Tỳ-kheo-ni và Bát Kính Pháp buộc họ phải tuân thủ, tôi vẫn không đồng ý với những ý kiến này. Hơn nữa, dựa vào thực tế của đời sống khi các giới hình thành, nếu khảo sát hoặc so sánh các điều luật của cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni một cách tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy rằng các điều luật ấy hết sức thực tiễn và cảm thông cho đời sống tu sĩ cả Tăng lẫn Ni. Điều này phải được nhìn nhận một cách sâu sắc về “đời sống khất sĩ” của chư Ni như đã mô tả trong Luật Tạng. Thật sai lầm khi chúng ta chỉ dựa vào sự hiện diện của các giới trội hơn cho Tỳ-kheo-ni mà lại khái quát hoá quan điểm của Phật giáo về phụ nữ nếu không khảo sát nguồn gốc của các giới đó hoặc bối cảnh xã hội”

Từ đây, chúng ta có thể suy luận thêm cùng một vấn đề chênh lệch về giới, nhưng các học giả đều có mỗi góc độ nhìn khác nhau. Và những người “trong cuộc” lại có cái nhìn thực tiển và chính xác hơn! Ngay điểm này, chúng ta có thể tạm chia ra làm hai khái niệm:

1/ Học giả: là một chuyên gia đi thu thập dữ liệu, nghiên cứu, so sánh, thậm chí chẻ sợi tóc ra thành ngìn mảnh nhỏ để đi đến kết luận: 1+1=2 mà không cần trải qua thực nghiệm!

2/ Hành giả: là người giai đoạn sau của Học giả, là sau khi nghe rồi suy nghĩ, thấy sự việc đó đúng, đi đến thực hành (Văn như tư, tư như tu). Nên Hành giả là người: 1+1=1. Hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau, nên đứng về mặt khách quan nhận xét thì các Học giả đúng về mặt so sánh số lượng với số lượng Tỳ Kheo Tăng giữ 250 giới, Tỳ Kheo Ni giữ 348 giới. Nhưng ngay nơi 2 danh từ Tăng và Ni đã nói lên sự khác khác biệt giữa hai giới tính.

Như vậy, chúng ta suy luận thêm, đức Phật là người biết rõ tâm sinh lý của chúng sinh! Vì Ngài đã chứng nghiệm tự thân: “Chính bản thân ta chịu sanh, già, bệnh, chết, sầu khổ và phiền não, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng, ta đã tìm kiếm cái không bị sanh (ajaata), không bị già, (ajara) không bị bệnh (abyaadhi'm), không bị chết (amata), không bị sầu khổ (asoka'm), không bị phiền não (asankili.t.tha'm), sự an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc - ta đã chứng đạt niết-bàn. Tuệ nhãn và tuệ tri sau đây đã xuất hiện trong ta; sự giả thoát của tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không còn phải tái sanh nữa”. (Niết bàn và sự chấm dứt luân hồi-Buddhismtoday). Cho nên Ngài đã mạnh dạn chỉ dạy cho hàng đệ tử phải gìn giữ giới luật như thế nào, và Tỳ kheo cần phải giữ bao nhiêu và Tỳ Kheo Ni cần phải giữ bao nhiêu là đủ, để đạt được Trí tuệ và đạo quả Giải thoát! Như vậy, trong sự chênh lệch này đức Phật không hề có sự nhầm lẫn và Ngài đã có sự cân nhắc hết sức tận tường và tinh tế. Vì những người nữ đầu tiên phát tâm xuất gia là Mẹ và những nhưng người thân thuộc của Ngài, nên chắc chắc là Ngài không phải bị sức ép của xã hội, phong tục tập quán và bất cứ một thế lực nào! Đứng ở góc độ này Việt Nam có câu Ca Dao khá giống cách xử sự của Ngài: “thương con cho roi cho vọt, ghét con thì cho ngọt cho bùi”! Như thế, giới luật của Ngài cho Tăng và Ni giữ là cả một tấm lòng bi mẫn như một người “Cha” đối với tất cả các “con”, chứ không phải vì chư Tăng có cùng giới tính với Ngài nên được giảm bớt giới cấm!

Làm sao Ngài không biết sự khác biệt về cơ thể vật lý và tâm sinh lý của Nam và Nữ ! Trong chúng ta đây điều thừa nhận rằng: Người nữ hầu như 80% là sống thiêng về tình cảm và người Nam có đến 85% sống thiêng về lý trí. Nên chúng ta không thể quy nạp đoàn thể Tăng già như một tập đoàn Dầu hoả Rockerfeller hoặc công ty phần mềm của Bill Gate là dù Nam hay Nữ khi hội đủ điều kiện làm việc là cùng tuân thủ chung một nội quy của tổng giám đốc đưa ra! Hay phải theo văn hoá Tây phương, phụ nữ phải được hưởng ưu tiên trên mọi lĩnh vực, hiểu như thế là hết sức tai hại và sai lầm với lộ trình hướng đến Vô ngã trong đạo Phật!

Thật ra, chư Tăng giữ 250 và chư Ni 348 giới ( theo Bắc tông) chỉ là con số tượng trưng cho giới “Tướng”, chứ giới “Tánh” không hẳn là dừng lại ở đó! Ví dụ: giới không được uống rượu, nhưng chúng ta phải hiểu là không được dùng những chất kích thích! Không được khởi tâm nghĩ đến chất kích thích, chứ không thể hiểu một cách đơn giản là chỉ có cấm không được uống rượu mà thôi! Nên giới luật của Tăng Ni là khác hẳn với điều lệ của xã hội. Vì vậy, giới còn được ví: người mù được sáng mắt, giữa biển khơi tìm được hải đảo như châu báu lấy hoài không biết chán! Còn người phá giới như tên bắn, như thác đổ, như ngựa chạy và như xe đang vào đường đèo mà bị bể bánh đứt thắng….những lời dạy đó bàng bạc khắp nơi trong giáo lý của Ngài cho chư Tăng qua các kinh Tứ Thập Nhị Chương và phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Pháp Hoa…nhưng có học giả nào phản ảnh đức Phật đã bất công cho Tỳ kheo giữ thêm ngoài 250 giới?

Có thể nói đây là vấn đề lớn và khó cho các Học giả và những ai mới bắt đầu nghiên cứu giáo lý Phật giáo, nó không giản đơn như chuyện 1+1=2, nên một hành giả đã phát biểu: “nếu chẳng một phen sương thấm lạnh, hoa kia đâu dễ ngửi mùi hương”! Vì vậy, Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni có chênh lệch giới điều là không hẳn trong đạo Phật bất bình đẳng mà đó là nhu cầu cần thiết cho từng cơ thể vật lý và tâm sinh lý của mỗi Hành giả đang trên đường tìm đến giải thoát. Một khi đã hết bệnh thì tất cả các loại thuốc đều trở thành vô nghĩa, nên trước khi vào Vô dư y Niết Bàn Ngài đã khẳng định: “trong suốt 49 năm ta chưa hề nói một lời!” Vậy mà ngày nay chúng ta cứ đem cái đầu óc phân tích, hý luận chia chẻ giáo lý của Ngài ra hàng tỷ mảnh vụn, rồi phê phán chổ này không logic, chổ kia không công bằng…trong khi hai phạm trù Phân tích và thực nghiệm hoàn toàn trái ngược nhau. Hãy mạnh dạng buông bỏ tất cả thì chúng ta sẽ thấy được trong đạo Phật là bình đẳng tuyệt đối!

Delhi, 18/06/2002


-- o0o --

Nguồn: nigioingaynay.com

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10282)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6764)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 36966)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25635)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21530)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15214)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15309)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17916)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5095)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21493)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]