Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và phụ nữ

19/06/201103:13(Xem: 5489)
Phật giáo và phụ nữ

phu_nu

PHẬT GIÁO VÀ PHỤ NỮ


Tạ Chí Hồng – Nguyên Đạo
Tạ Lê Cẩm Tú – Karma Drola


Chuyện nam nữ có lẽ là vấn đề (tạm gọi) - là muôn thuở. Nó bắt đầu từ thời kỳ hồng hoang mà đến nay vẫn mang tính thời sự nóng hổi! Để bàn vấn đề này liên quan đến tổ chức, quan điểm của Phật giáo, có lẽ phải bắt đầu từ những lý do căn bản như sau.

1. Tại sao lại có phân biệt nam nữ?

Đứng ở góc độ nhân thế để mà bàn, F.Engels cũng như C. Marx đã đưa ra lời nhận xét dí dỏm. Mới đầu ở chế độ nguyên thủy, mọi người đều bình đẳng. Sau khi sự phân công lao động lần thứ nhất của nhân loại ra đời, người phụ nữ ở nhà (thường là hang động) đảm nhận vai trò, chăn nuôi, thuần dưỡng súc vật, trồng trọt v.v… Đó là chưa nói đến thiên chức của người đàn bà là sinh con để duy trì nòi giống, tham gia vào việc nuôi dạy con cái, nấu nướng v.v…, người đàn ông đảm nhận vai trò đi săn bắn. Từ đó, năng suất của người phụ nữ thường ổn định và phát triển, còn năng suất của người đàn ông vốn bấp bênh, sau này lại càng bấp bênh vì “chim trời, cá nước” nên khi được khi không. Đó là chưa nói đến việc đi săn bắt rất nguy hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình. Chuyện này không phải hiếm. Về kinh tế, cũng từ năng suất lao động quyết định nên người đàn bà giữ vai trò chính, dần dà trở thành chế độ mẫu quyền. Một công thức rất hiển nhiên là: khi người ta nắm kinh tế, trước sau người ta sẽ nắm chính trị. Theo các nhà sử học, chị em đã “lên ngôi” trong khoảng 300 ngàn năm, nó bắt đầu từ thời kỳ đồ đá mới! Đó cũng là một minh chứng để lý giải tại sao, sau này chỉ nói riêng thời bà Trưng ở Việt Nam cũng có nhiều nữ tướng như vậy. Với Việt Nam, chế độ mẫu quyền còn mang dấu vết đến ngày nay như dân tộc Chăm và các dân tộc thiểu số khác.

Sau này cũng từ việc săn bắn thất bát, người đàn ông trở về cùng người đàn bà thuần dưỡng súc vật. Đến lúc này do sức vóc, sự dẻo dai, chịu đựng của người đàn ông tốt hơn, nên như F.Engels đã đưa ra ví dụ, chỉ cần phải lùa một đàn cừu trên núi trong cơn bão tuyết thì rõ ràng người đàn ông làm việc này tốt hơn người đàn bà. Dần dà người đàn ông nắm kinh tế. Đối với người đàn bà, F. Engels nhận xét rất dí dỏm: từ khi người đàn bà khoác lên vai kẻ chiến thắng vòng nguyệt quế thì từ đó người ta phục tùng vô điều kiện! Đến đây, rõ ràng kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng!

2. Tư tưởng trọng nam khinh nữ của phong kiến

Nối tiếp từ chế độ phụ quyền, chế độ phong kiến hầu hết cả phương Đông và phương Tây, nhìn chung đều giống nhau là tư tưởng đẳng cấp và trọng nam kinh nữ. Chỉ nói riêng ở Ấn Độ thời Phật còn tại thế, Bà La môn (Bràhmana) đã chia con người trong xã hội đó thành bốn đẳng cấp:

1. Bà La Môn (Bràhmana): đây là đẳng cấp tối linh, chủ trương về việc nghi lễ và tôn giáo.

2. Sát đế lỵ (Khattiya): đẳng cấp vua quan, tướng binh, nắm quyền thống trị.

3. Tỳ Xá Vệ (Vessa): đẳng cấp bình dân, công, nông, thương.

4. Thủ Đà La (Duddra): đẳng cấp tiện dân, bần cùng, nô lệ.

Điểm chú ý sự kỳ thị giữa các đẳng cấp này rất nhiệt ngã. Chẳng hạn cấm được kết hôn với nhau. Có trường hợp nếu người nô lệ chỉ nhìn vào giếng nước của đẳng cấp trên thì cái giếng ấy được coi là nhơ bẩn, không dùng được nữa và người nô lệ này phải bị ném đá cho đến chết! Đi theo tư tưởng này cùng với vấn đề lịch sử như trên, dĩ nhiên vai trò của người phụ nữ rất thấp kém. Người phụ nữ thời ấy bị khinh rẻ và chỉ là những món đồ chơi của đàn ông. Sự bắt cóc, cưỡng ép, buôn bán phu nữ, thiếu nữ thường xuyên xảy ra. Trong đời sống thường nhật, người phụ nữ phải chịu khá nhiều về thiệt thòi: không được ra khỏi nhà, nếu không được phép và không có mạng che mặt; không có quyền trong sinh hoạt xã hội và tôn giáo…

3. Vai trò phụ nữ trong Phật giáo

Có thể nói, hơn 95 học phái tư tưởng, tôn giáo lúc bấy giờ, đạo Phật ra đời như một ngôi sao lớn nhất, tỏa sáng lung linh trên bầu trời đầy sao của trí tuệ; một hồi chuông lớn gióng lên, đánh vào Bà La môn giáo cả 3 phương diện: xã hội; tôn giáo và nghi lễ.

Khác với nhiều hệ tư tưởng đương thời, Phật giáo xây dựng trên cái nền bình đẳng giai cấp. So với các hệ tư tưởng Đông Tây cả đương thời và sau này, tư tưởng bình đẳng của Phật giáo rộng vô biên như tấm lòng của Bồ Tát và Phật vậy! Một lời tuyên bố nổi tiếng của Phật trong kinh Tăng Chi đủ chứng minh cho tư tưởng bình đẳng rộng lớn của Phật giáo, trong này bao hàm sự bình đẳng nam nữ, sự giải phóng phụ nữ, mà các hệ tư tưởng khác nhìn chung đã không làm được:

Ví như, này Pàhàràda, phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamuhà, sông Aciravatì, sông Sarabhù, sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pahàràđa, có bốn giai cấp này: Sát đế lỵ, Bà La Môn, Phệ xá, Thủ Đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong pháp và luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích Tử” (1)

Trước và sau khi thành lập giáo đoàn Tỳ kheo Ni, Phật đã nhìn thấy năng lực của phụ nữ không thua kém đàn ông về tu chứng và giải thoát. Có thể nói, Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã nhìn thấy và nâng cao vị trí của hàng phụ nữ đến mức quan trọng nhất. Câu chuyện về bà Mahaprajapatì (kế mẫu của Thái tử Sĩ Đạt Ta) liên quan đến giáo đoàn Tỳ kheo Ni, dù có người nhầm lẫn về sự đắn đo của Phật, nhưng nó đã minh chứng cho điều đó.

Ngoài ra, Phật còn đánh giá rất cao vai trò của phụ nữ trong gia đình, trong quan hệ xã hội. Điều này được thể hiện trong Kinh Thiện Sinh và các kinh khác.

4. Phụ nữ ngày nay

Ngày nay, trên khắp thế giới đã dấy lên phong trào giải phóng phụ nữ, cũng tức là giải phóng trong tư tưởng phong kiến trong đầu người đàn ông quan niệm về phụ nữ. Với khoa học phát triển, với phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng bùng nổ, phụ nữ nhận thức được rằng: họ chẳng có điều gì thua kém nam giới. Thậm chí, có những mặt phụ nữ còn vượt trội hơn nam nhân.

Từ mục đích cao cả của nhà Phật là giải thoát (cũng có nghĩa là giải phóng), đến đây chúng ta mới thấy đức Phật là một nhân vật thật vĩ đại. Ngài đã làm một cuộc cách mạng long trời, lở đất từ hơn 2500 năm về trước. Chẳng những Ngài giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự kìm kẹp, áp bức của xã hội, mà còn tạo điều kiện cho phụ nữ vững bước vào đời, tự quyết định tương lai của mình.

Trong ánh sáng tâm linh của đức Phật, không có vấn đề kỳ thị, mà trái lại, mọi người, mọi loài đều hiển thị đúng chỗ của chúng, đều cần thiết ngang nhau, đều bình đẳng như nhau. Trong giáo đoàn Phật giáo, người phụ nữ thật sự được tôn trọng, được kính nể, được đề cao như một vị Phật tương lai.

-----------------------------

(1). Giáo hội Phật giáo Việt Nam, KinhTăng Chi Bộ, tập III, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện nguyên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996, tr. 562.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3507)
Đức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Savatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Độ, tại Kỳ Viện Tịnh Xá của Trưởng Giả Anathapindika, Cấp Cô Độc. Vào lúc ấy Đại Đức Ananda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ananda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Savatthi.
09/04/2013(Xem: 3416)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 4819)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 4787)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 6775)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3482)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3189)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
08/04/2013(Xem: 6541)
Một học giả Phật giáo, dịch giả và tác giả người Hoa Kỳ, cô Besty Napper đã từ bỏ công việc dạy học của mình ở Đại học đường Stanford vào năm 1990 để đến làm việc tại Dharamsala - Ấn Độ, giúp đỡ sư bà Rinchen Khadro, điều hành một kế hoạch xây dựng một ni viện và một trường Phật học cho ni giới Tây Tạng. "Tôi có cái may mắn mà người phụ nữ Tây Tạng không có được", cô đã trả lời phỏng vấn với sư cô Robina Courtin vào tháng sáu trong chuyến đi ngắn trở lại Hoa Kỳ để in lịch Tây Tạng năm 1996.
08/04/2013(Xem: 3236)
Một lần nữa, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tới Nam California hôm Thứ Ba 26-9-2006, nói chuyện trước 13,000 phụ nữ trong hội nghị có tên là Honference on Women (Hội Nghị về Phụ Nữ), tổ chức bởi Thống Đốc Arnold Schwarzenegger và đệ nhất phu nhân tiểu bang Maria Shriver.
08/04/2013(Xem: 4401)
Hema Goonatilake đã nhận học vị Tiến sĩ tại Khoa Á Phi Hoc thuộc Viện Đại Học Luân Đôn năm 1974. Bà là giáo sư tại đại học Kelaniya của Sri Lanka cho đến năm 1989. Sau đó, bà phục vụ như một chuyên gia về phát triển và giới tính cho tổ chức UNDP và UNIFEM ở New York và UNDP ở Cam-Bốt, và là một Cố Vấn của Viện Phật Học Cam-Bốt. Bà là sáng lập viên của hội Tiếng Nói Phụ Nữ, một hội bảo vệ nữ quyền đầu tiên của Tích Lan, và là đồng sáng lập viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Phụ Nữ ở Tích Lan.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567