Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Đức Bảo Thắng Như Lai (ghi lại sau khi nghe bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng hôm nay, 18-7-2020)

18/07/202012:58(Xem: 18093)
27. Đức Bảo Thắng Như Lai (ghi lại sau khi nghe bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng hôm nay, 18-7-2020)


27_TT Thich Nguyen Tang_Duc Bao Thang Nhu Lai


Nam Mô A Đi Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ giảng bài kệ thứ 27 trong Nghi Đảnh Lễ Tam Bảo của Hòa Thượng Thích Trí Thủ:

 

Mâu ni tịch tịnh quán

Thị tắc viễn ly sanh

Thị danh vi bất thủ

Kim thế hậu thế tịnh.

Nhất tâm đảnh lễ Bảo Thắng Như Lai. 


Dịch nghĩa:

Quán tịch tịnh Mâu-ni
Làm cho viễn ly sanh khởi.
Quán ấy gọi là bất thủ (không nắm chấp)
Đời này, đời sau đều tịnh.

Một lòng kính lạy đức Bảo Thắng Như Lai. 

(Bản dịch của HT Thích Chơn Thiện)

 

Đức Bảo Thắng Như Lai, tiếng Phạn gọi là: Ratnaketu, là một trong bảy vị cổ Phật, ngài có công hạnh hay bố thí cho ngạ quỷ, Ngài trụ tại Phương nam cùng Đức Bảo Sanh Phật ( Phương Đông có Đức A Súc Phật, Phương Tây có Phật A Di Đà; Phương Bắc có ĐứcThành Tựu Phật; Trung ương có Đức Tỳ Lô Giá Na Phật).

Trong Nghi Mông Sơn Thí Thực có ghi danh hiệu của Phật Bảo Thắng, có năng lực giúp cho loài ngạ quỷ dứt trừ được lửa nghiệp phiền não sanh tử và sau đó được thác sanh vào cõi lành.

Sư phụ giải chữ Quán Mâu Ni tịch tịnh quá hay. Lần đầu tiên con nghe thấy:

Thích Ca thị Phật chi tánh
Mâu Ni thị Phật chi danh

Thích Ca dịch là Năng Nhơn
Mâu Ni dịch là Tịch Mặc

Năng là năng lực
Nhơn là từ bi

Tịch là không bị sự khổ sự vui làm động
Mặc là không bị phiền não quấy nhiễu.

Quán Mâu Ni là giữ tâm an bình tĩnh lặng, không bị khổ vui, phiền não nhiễm ô quấy động.


Muốn được yên tĩnh tâm hồn phải biết “viễn ly”, phải biết “ly sanh hỷ”, biết buông bỏ lập tức sẽ có niềm vui.

 

Muốn được tịch tĩnh yên ắng trong tâm phải biết buông xuống, không “chấp thủ”, là bám víu, là dính mắc, là cố chấp.

Chấp thủ là kiến hoặc, loại phiền não sai khiến và trói buộc con người trong đau khổ, đó là: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.

Chấp thủ  là nguồn gốc của bất hạnh & khổ đau.

Người chấp thủ là người cố chấp, cứng đầu, ra rời Tam Bảo và luôn có suy nghĩ một chiều, không bao giờ biết lắng nghe. Sư Phụ trưng dẫn lời Phật dạy trong Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: “Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” 


Và Vua Trần Thái Tông (1218-1277) cũng nói về người chấp thủ là  Mắc mứu tình trần, Lấp tâm chấp tướng. Như tằm kéo kén, Càng buộc càng bền.

 

Sư Phụ cũng có giải thích về tác phẩm “Vô Môn Quan” của Thiền Sư Huệ Khai (1183-1260) Thiền Sư Tông Lâm Tế đời Tống,

một tác phẩm nói về 43 công án, yêu cầu hành giả phải buông bỏ mọi phiền não chấp thủ để có thể vượt qua “quan ải không có cửa”. Nếu không qua được thì tự hạ thấp mình và tự cô phụ đời tu của mình. (Nhược bất thấu đắc vô môn quan, diệc nãi cô phụ tự kỷ)

Kính Bạch Sư Phụ, bài kệ pháp hôm nay tuy đơn giản, nhưng  ý nghĩa thâm sâu, khó đạt được. Nhờ SP chỉ rõ nguyên nhân  của cái khổ  là từ sự bám víu” cái Tôi đáng sợ” của mình ,  tự dùng năng lực quán chiếu và buông xả “cái tôi” thì mới đạt được thảnh thơi tự tại.

 

Cuối bài giảng Sư Phụ ngâm bài thơ “Cái Tôi” của Thầy Tánh Tuệ rất tuyệt vời diễn tả mọi hình tướng cái tôi đầy phiền não thường tình của chúng sanh, xin mời đại chúng đọc lại theo lời của Sư phụ:

 

Cái Tôi là cái chi chi

Mà hoài quanh quẩn chưa khi nào rời

Thuở còn bé dại nằm nôi

Đã cao giọng khóc cho... đời biết tên.

Điều gì cũng dễ lãng quên

Cái tôi - sâu đậm nhớ bền chẳng phai.

 

- Sớm mai đã ngắm hình hài

Thế gian kia hỏi mấy ai hơn mình.

Điểm tô, trau chuốt dáng hình

Thèm thuồng thiên hạ cái nhìn, xuýt xoa! 

 

Cái tôi theo tháng ngày qua

Măng non thành cụm tre già dặn hơn.

Trong nhà, cuối xóm, đầu thôn

Tôi là số một, tôi “ngon" hơn người.

Tôi khóc, không muốn ai cười

Thấy ai thành đạt tôi thời chẳng vui

Tôi nói ngược, chớ nói xuôi

Một khi tôi muốn có Trời mới can!

 

Tôi thành cái rốn không gian

Bên ngoài nảy nở, bất an trong lòng.

Truy tìm hai chữ thành công

Nên đường Danh, Lợi đèo bồng ngược xuôi.

Chiều cao chỉ một mét thôi

Nhưng muốn đời phải ngước đôi mắt nhìn,

Muốn nhân tâm hướng về mình

Dành bao thiện cảm, tâm tình cho tôi.

Tôi đi, tôi đứng, tôi ngồi

Là trung tâm điểm cho người ước mơ...

 

- Chiều nay, bỗng thật tình cờ

Vào chùa Sư cụ ngó lơ, tôi buồn!

Sư rằng: “Vạn sự vô thường,

Thân, tâm chiếc bóng trên tường, huyễn hư!

Con người khổ bởi khư khư

Ôm cái huyễn ngã, Chân như đoạn lìa.”

 

Ôi! Thanh âm chốn Bồ Đề

Nghe như vụn vỡ u mê nghìn đời.

- Còn “tôi”, còn nặng luân hồi

Buông tôi - nghe nhẹ đất trời thênh thang.

- Có “tôi”, trăm mối lo toan

Vắng “tôi”, đời sống bình an mọi bề.

Lời Sư, trăng rọi lối về

Xưa nay nằm mộng, chưa hề có tôi!

Ngước hư không, bẽn lẽn cười 

Thương “cái tôi” của một thời trẻ con!

 

Con xin thay mặt quý Phật tử gần xa thành kính tri ơn Sư Phụ đã từ bi ban cho chúng đệ tử mỗi ngày một bài pháp thật ý nghĩa để hàng đệ tử chúng con tinh tấn tu trì để có niềm an lạc cho bản thân, gia đình và xã hội.


Nam Mô Bảo Thắng Như Lai.
Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 2829)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
05/01/2011(Xem: 32295)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 42876)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
02/01/2011(Xem: 7566)
Người xưa nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Con người có mặt trong cuộc sống, ngoài việc phải nắm bắt thời gian, giành lấy thời gian, tận dụng thời gian, làm nhiều việc mang lại lợi ích cho xã hội, ngoài mục đích kéo dài tuổi thọ về mặt thời gian ra, còn cần phải mở rộng phạm vi đời sống, mở mang không gian tâm linh, để bản thân có thể hòa nhập vào nhân quần, hướng về cộng đồng thế giới.
30/12/2010(Xem: 3009)
Có lẽ người đầu tiên đặt vấn-đề Phật-giáo trong Truyện Kiều là sử-gia Trần Trọng Kim. Viết trong tập-san Khai Trí Tiến Đức số 1 (Octobre-Décembre) năm 1940, ông đã có bài “Lý-thuyết Phật-học trong Truyện Kiều.” Dù như ta biết ông là một học-giả uyên bác, không riêng gì trong ngành sử-học mà còn cả trong văn-học - ông đã cùng Bùi Kỷ hiệu đính một bản Kiều nổi tiếng từ năm 1927, sau này được nhà Tân Việt in lại rất nhiều lần - cũng như ông đã có tay trong việc phục-hưng Phật-giáo ở nước ta trong thập niên 30-40, trong bài viết nói trên, ông chỉ nêu ra được có “thuyết nhân quả” và đi vào đề-tài “cái thuyết nhân quả diễn ra ở trong Truyện Kiều” một cách tương-đối sơ sài.
14/12/2010(Xem: 16693)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
13/12/2010(Xem: 21543)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
27/10/2010(Xem: 11552)
Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ, xem như mắc tội vậy. Phật không bao giờ cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc, mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.
25/10/2010(Xem: 2899)
Cuộc sống con người được tính từ lúc sinh ra cho đến khi trút hơi thở cuối cùng giã từ cuộc sống. Khoảng thời gian ấy được thâu tóm qua hai từ Sinh và Tử, và hai từ ấy cũng có lẽ là hai từ quan trọng nhất trong kiếp sống nhân sinh.
01/10/2010(Xem: 5573)
Kính lạy Đức Thế Tôn, Ngài đã thị hiện vào cõi nhân gian nhiều khổ đau, phiền lụy này, bằng hạnh nguyện độ sinh, bằng trí tuệ siêu việt, để từ đó Đức Thế Tôn xây dựng một nền văn hóa người trong sáng, một nếp sống hướng thượng, tâm linh siêu thoát, bằng giáo pháp giác ngộ, bằng nếp sống văn hóa cao đẹp, lành mạnh có lợi ích cho tha nhân mà con người thời bấy giờ đã xưng dương, tán thán Đức Phật...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567