Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm tưởng về Đại hội văn hóa PG.

09/04/201312:29(Xem: 5242)
Cảm tưởng về Đại hội văn hóa PG.

image002

VÀI CẢM TƯỞNG PHÁT BIỂU TẠI ÐẠI HỘI VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở SAN DIEGO NGÀY 4.1.2003

Ỷ LANÜ

Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa có đề nghị tôi phát biểu đôi lời cảm tưởng về Ðại hội Văn hóa Phật giáo hôm nay. Xin thành thật cảm ơn mỹ ý của Thượng tọa.

Thực sự, tôi rất xúc động đến tham dự Ngày hội Văn hóa Phật giáo tổ chức lần đầu tiên ở hải ngoại. Từ sáng đến giờ chúng ta đã được nghe những Ðại gia văn hóa Phật giáo, từ trong nước ra đến ngoài nước, phát biểu. Riêng tôi, là ngoại nhân của nền văn hóa ấy, vì tôi chỉ là một người ngoại quốc chưa hề có vinh hạnh đặt chân lên đất nước Việt Nam, nên sự hiểu biết về nền văn hóa lớn lao này hết sức thô thiển. Nhưng theo dõi và lắng nghe, tôi mừng rỡ một điều, là mình không hiểu sai lạc nền văn hóa ấy, mình đã đi đúng đường khi tháp tùng và sống với nền văn hóa này bao nhiêu năm qua.

Hình ảnh của Việt Nam và Phật giáo gây chấn động tâm tư tôi hồi còn trẻ, hồi tôi chưa hề biết Việt Nam ở đâu trên quả địa cầu. Ðó là hình ảnh Bồ tát Thích Quảng Ðức tựï thiêu mà tôi nhìn thấy trên truyền hình bên Anh quốc vào tháng 6 năm 1963. Lúc ấy, lòng từ bi trong tôi được thức tỉnh, cùng lúc với một nguồn Ánh sáng vô biên chọc thủng màn sương mù Anh quốc, soi sáng thế giới trầm lặng yên ả nơi quê hương tôi. Tôi bắt đầu thấy còn nhiều điều mình phải lưu tâm trên trái đất, còn có những thế giới khác ngoài thế giới mình đang sống, còn có nhiều nền văn hóa, văn minh ngoài nền văn minh Tây phương. Nghĩ lại thời ấy mình chẳng khác chi con ếch nằm đáy giếng. Thời gian sau, tình cờ mà cũng là may mắn lớn, tôi đến nghe anh Võ Văn Ái thuyết trình về Văn hóa Việt Nam và Phật giáo tại cố đô York của tôi. Hồi đó nhiều phong trào đấu tranh rầm rộ ở phương Tây cho hòa bình Việt Nam. Nhưng hầu như tất cả các phong trào này chống Mỹ và ủng hộ lập trường chính trị của Hà Nội. Ðiều gây ngạc nhiên và chú ý cho chúng tôi ở York là anh Ái nói đến một thực tại khác về đa số thầm lặng của nhân dân Việt Nam đang là nạn nhân của cuộc chiến tranh thừa sai của các siêu cường.

Ðó là con đường đưa tôi đến với Việt Nam : qua hình ảnh của một vị Bồ Tát cứu đời, như một nền văn minh của Ánh Sáng Thức tỉnh, rồi qua trung gian của anh Ái, tôi được học tập và thấm nhuần nền văn hóa Việt Nam và Phật giáo.

Ngày nay, đi thuyết trình đây đó trong cộng đồng người Việt hải ngoại, thỉnh thoảng tôi nghe có số người chủ trương rằng, bây giờ chỉ nên chuyên lo “tu học, tu hành”, chỉ nên “làm văn hóa” mà thôi, đừng “tranh đấu”, đừng “làm chính trị”.

Tôi ngạc nhiên vì sao nền tư tưởng Bất Nhị của Ðông phương bỗng tha hóa thành lối suy nghĩ Nhị nguyên như thế ? Khi đọc sách và nghiên cứu về Việt Nam, tôi thấy suốt quá trình 2000 năm, những nhà Sư, những Cư sĩ Phật giáo luôn đứng đầu trên mọi trận tuyến bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và chiến đấu cho sự tự do, an lạc và no ấm của con người. Trong quá trình lịch sử ấy, tôi không hề thấy sự phân biệt giữa văn hóa với chính trị, giữa xã hội với tôn giáo, giữa đời và đạo. Trong những năm qua, khi tiếp xúc và làm việc chung với người Tây Tạng, tôi cũng nhận thấy tính chất không phân haiy hệt như lối suy nghĩ và hành động của người theo đạo Phật trong quá khứ lịch sử Việt Nam.

Ðức Dalai Lama là hình ảnh đại diện của một nền Văn minh Ánh sáng Giác ngộ. Nghe Ngài nói chuyện, tôi không biết Ngài đang thuyết trình về một lập trường chính trị hay Ngài đang thuyết pháp ? Thế nhưng sự ăn nói của Ngài thuyết phục chúng ta và thế giới, vừa là một giải pháp chính trị cho toàn dân Tây Tạng, vừa là sự khai mở cho quê hương tâm linh nhân loại. Ðâu là biên giới giữa chính trị và tôn giáo ? giữa thế tục và tâm linh ? Tôi nghĩ rằng, phải chứng đắc Phật Pháp mới vượt qua khỏi mọi lằn ranh phân biệt làm thiệt hại cho hạnh nguyện Bồ tát cứu đời. Mấy năm trước, được Ðức Dalai Lama mời, tôi tháp tùng anh Võ Văn Ái đến thăm Dharamsala, thủ đô tị nạn của người Tây Tạng. Tại đây, tôi cũng nhận rõ sự không phân haitrong đời sống hằng ngày của người Tây Tạng. Họ hoạt động tại Quốc hội Tây Tạng, hay họ gia công trong các xưởng thủ công mỹ nghệ, họ tập luyện và bảo trì các vũ điệu truyền thống, hay họ công tác tại Trung tâm Nhân quyền Dân chủ, họ tụng niệm trong các tu viện, hay từ các văn phòng Ðại diện tại các thủ đô AÂu Mỹ họ về nhận chỉ thị ở Dharamsala... những hình thái sinh hoạt khác nhau, trên những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Nhưng tất cả họ đều hướng tới mục tiêu duy nhất : giải phóng Tây Tạng và phát huy nền văn hóa tâm linh của Tây Tạng.Không một thoáng giây phân biệt, đâu là văn hóa, đâu là chính trị, đâu là đạo, đâu là đời, đâu là tăng, đâu là tục. Việc gì họ cũng thong dong tham gia, vì họ mang lý tưởng duy nhất : Trên cầu Trí Giác, dưới cứu Chúng sinh. Ðó là chỗ khác với những quan điểm nhị nguyên đang phân hóa xã hội và làm khổ đau loài người.

Ý nghĩ cuối cùng tôi xin được nêu ra làm lời kết luận. Ðó là hình ảnh của Ðại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, vị lãnh đạo Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và cũng là Bổn sư của tôi. Năm nay Ngài đang “kỷ niệm” năm tù đày thứ 20. Người ta dùng chữ kỷ niệm để nhắc những gì vui, ở đây tôi lại muốn kỷ niệm một chuyện buồn lòng của bậc Cao tăng mà cũng là chuyện bi thảm của người dân Việt. Những bậc Cao tăng giáo phẩm lâm hoàn cảnh tương tự, như Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, hay hai Thượng tọa Tuệ Sỹ và Trí Siêu Lê Mạnh Thát, thì nhờ cuộc đấu tranh của toàn thể Phật tử hải ngoại, trong đó có Cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, tạo nên áp lực quốc tế mạnh mẽ, ba vị đã được ân xá năm 1998. Dù rằng, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt cầm tù trở lại kể từ tháng sáu năm ngoái.

Ở Ðại hội hôm nay, chúng ta vui mừng đón nhận hai thông điệp của hai Thượng tọa Tuệ Sỹ và Trí Siêu Lê Mạnh Thát từ trong nước gửi ra. Ðiều tôi vô cùng thích thú, là cách xa hàng chục nghìn cây số, không hề được gặp nhau, vậy mà thông điệp của Thượng tọa Lê Mạnh Thát nhắc đến bài thơ “Vận nước” của thiền sư Pháp Thuận, bài tham luận của anh Võ Văn Ái cũng nhắc đến thiền sư Pháp Thuận với bài “Vịnh Nga” đối đáp với sứ Lý Giác và bài “Vận nước” mà anh đã cho đăng trên giai phẩm Quê Mẹ Xuân năm 1987 như một Tuyên ngôn Dựng nước, một Tuyên ngôn Hòa bình.

Tôi chưa có cơ duyên gặp hai Thượng tọa, nhưng đã biết tên tuổi hai vị từ lâu. Do anh Ái giới thiệu và cũng do cuộc vận động quốc tế mà tôi trực tiếp tham gia khi nghe tin hai Thượng tọa bị cộng sản kết án tử hình năm 1988. Cộng sản rất khôn, khi kết án họ chỉ gọi tên thế tục là Phạm Văn Thương và Lê Mạnh Thát, mà không nêu Pháp danh, Pháp vị. Thời ấy không như bây giờ, các hãng thông tấn quốc tế chưa có nhiệm sở ở Hà Nội, báo chí trong nước không phổ biến ra nước ngoài. Do hoạt động lâu năm, cơ sở Quê Mẹ của chúng tôi có đường dây riêng để theo dõi tin tức trong nước. Khi hay tin, chúng tôi báo động tức khắc cho các tổ chức Nhân quyền trong thế giới như AÂn xá Quốc tế, Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền, Human Rights Watch, v.v... nói cho họ biết Phạm Văn Thương là Thích Tuệ Sỹ đó, Lê Mạnh Thát là Thích Trí Siêu đó. Chúng tôi còn can thiệp đồng thời cho người lãnh án tử hình thứ ba là ông Trần Văn Lương, mà ít ai trong cộng đồng để ý. Cứu người như cứu lửa, xong việc thông tin, chúng tôi bỏ ra 13 ngày vận động khẩn cấp đến các chính phủ trong thế giới, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế lớn. Hầu như các Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch các Quốc hội AÂu, Mỹ, Úc, Á đều đáp lời của cơ sở Quê Mẹ lên tiếng bênh vực cho hai Thượng tọa. Tại Hoa Kỳ, nơi mà chúng ta đang mở Ðại hội Văn hóa hôm nay, tuy chưa có bang giao với Việt Nam thời ấy, nhưng chính phủ Hoa Ky øcũng đã đáp ứng lời kêu gọi của chúng tôi tham gia tạo áp lực. Chủ tịch Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO, đại diện cho 14 triệu đoàn viên, chính thức viết thư về Hà Nội phản đối và yêu sách. Một sáng kiến của anh Ái mà sau này chúng tôi mới nhận thấy là độc đáo. Trong bữa họp của cơ sở Quê Mẹ, ai cũng lo âu thắc mắc : “Làm sao cứu gấp hai Thầy ? Cộng sản sẽ làm ẩu để giết hai nhân tài của Phật giáo ? Cứu hai Thầy cũng là cứu Phật giáo”. Bàn qua tính lại, anh Ái điềm tỉnh đưa ý kiến : “Mình đã thành công dấy động dư luận AÂu Mỹ rồi. Bây giờ phải đến nhờ các quốc gia thân hữu với Hà Nội thì may ra cứu được hai Thầy. Thụy Ðiển là nước ủng hộ Hà Nội từ trước năm 1975, phải lên đó một chuyến”. Ngày hôm sau, tôi và anh Ái đi Thụy Ðiển xin gặp Thủ tướng Ingvar Carlsson, tha thiết trình bày vận mệnh như tơ mành trước gió của hai nhà đại tri thức Phật giáo, và là nhân tài của Việt Nam, để xin cầu cứu. Bất ngờ thấy gương mặt Thủ tướng xúc động, ông liền đánh điện sang Thái Lan yêu cầu Ngoại trưởng Thụy Ðiển đi gấp sang Việt Nam can thiệp cho hai Thượng tọa, lúc ấy ông này đang công tác ở Bangkok. Trở về Paris mấy hôm, Thủ tướng Ingvar Carlsson viết thư báo tin vui cho anh Võ Văn Ái, rằng Ngoại trưởng đã đến Hà Nội gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và chính phủ Việt Nam can thiệp và đã được lãnh đạo cộng sản hứa hủy án tử hình cho hai nhà Sư, còn trường hợp ông Trần Văn Lương họ chưa tìm ra hồ sơ. Do anh Ái chất vấn liên tục tại các khóa họp nhân quyền tại Liên Hiệp Quốc ở Genève, mấy năm sau Phái đoàn Hà Nội trả lời là ông Lương vẫn còn sống trong một trại giam.

Kể lại một kinh nghiệm có ý nghĩa đã qua liên hệ đến hai Thượng tọa mà tôi chứng kiến và tham dự. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không là chuyện tù đày, là chuyện cơm bữa tại Việt Nam. Ðiều tôi muốn được quý liệt vị lưu tâm, là mấy mươi năm qua khi hàng giáo phẩm lãnh đạo Phật giáo bị tù đày, thì mấy mươi năm ấy, nền Văn hóa Giác ngộ của đạo Phật cũng bị truy bức, bị xích xiềng.

Xin quý vị thử nghĩ đến bao nhiêu năm chư vị Cao tăng bị quan chế, tù đày ấy, biết bao là tác phẩm văn học Phật giáo không được quyền trước tác, xuất hiện, lưu truyền, thì chúng ta sẽ hiểu ngay tấn bi kịch văn hóa và cuộc đại nạn của Phật giáo và quê hương Việt Nam ngày nay.

San Diego, 4.1.2003

Ỷ Lan



ÜPhó chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, kiêm Phó Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đặc trách Vụ Quốc tế.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10038)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 36523)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
14/11/2021(Xem: 21181)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 14888)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15049)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17708)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
07/05/2021(Xem: 21046)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14569)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 24276)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13374)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]