Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đến chùa lạy Phật.

09/04/201312:23(Xem: 3873)
Đến chùa lạy Phật.

ĐẾN CHÙA LẠY PHẬT

Diệu Trân

--- o0o ---

Ai đến chùa cũng vào lạy Phật, trừ người hảo tâm đưa giùm người khác đến cửa chùa, rồi đi. Không người nào lạy Phật mà không lâm râm khấn vái. Tôi đoan chắc những lời khấn vái đều là những điều thiện, lành, không cầu phước cầu lộc cho mình thì cầu cho chồng cho con, cho họ hàng thân thuộc, bằng hữu xa gần; người có tâm lượng rộng rãi hơn thì cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình …… Người lạy Phật bận rộn cầu xin như vậy, chắc ít để thì giờ chiêm ngưỡng tôn nhan tượng Phật. Bận cầu xin đã đành, mà vì tin rằng đã cầu thì phải thành tâm Phật mới chứng, nên trong lúc cầu, ai cũng cúi rạp xuống mà tỏ lòng kính ngưỡng. Tự suy nghĩ như thế, tôi mới dám kết luận rằng, khi người Phật tử đến chùa lạy Phật, ít ai ngước mắt lên CHIÊM NGƯỠNG TÔN NHAN ĐỨC PHẬT, MẮT KHÔNG TẠM RỜI (như một câu trong Kinh A Di Đà.)

Là Phật tử sơ cơ nên khi chợt nghiệm ra như thế, tôi sửng sốt và có cảm tưởng mình chưa từng nhìn rõ tôn nhan Đức Thế Tôn mà chỉ biết qua Kinh là Ngài có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Biết như thế thì cũng như không biết vì 32 tướng tốt đó thế nào, 80 vẻ đẹp ra sao ? Những lời tả đó không giúp cho Phật tử “thấy” được Phật hơn là sự chăm chú chiêm ngưỡng tôn tượng. Tất nhiên, tượng cũng chẳng chứng thực được tôn nhan Phật nhưng qua hình tướng chúng ta còn có thể “thấy” Phật. Nghĩ thế, tôi dọ dẫm, tự kiểm chứng.

Lần đến chùa sau đó, thay vì quỳ rạp lạy Phật, tôi chắp tay, lắng tâm thanh tịnh rồi từ từ nhìn lên chánh điện. Tôi chăm chú ngắm tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tọa trên tòa sen. Mắt tôi chạm vào đôi mắt Ngài trước nhất. Lạ thay, tôi phảng phất thấy nụ cười từ ái nơi đuôi hai con mắt nhìn xuống. Nụ cười bằng mắt tỏa ra bát ngát bao dung và thương xót. Đôi mắt đang nhìn xuống thế gian mà biểu lộ cả tấm lòng Ngài. Chính đôi mắt đó đã chứng kiến bốn nỗi khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử của thế gian khi đi dạo ngoài bốn cửa thành. Những cảnh khổ đó không phải chỉ riêng đôi mắt Thái Tử Tất Đạt Đa thấy, mà hàng tỷ tỷ đôi mắt nhân gian đã thấy; nhưng nhân gian thấy chỉ để mà thấy, thấy rồi lại tiếp tục ngụp lặn trong biển khổ. Chỉ có vị Thái tử con vua Tịnh Phạn thành Ca Tỳ La Vệ là băn khoăn ray rứt vì biển khổ triền miên này.

Từ đôi mắt thấy cảnh thương đau, đôi tai Ngài đã lắng nghe bao lời rên siết. Tất cả những tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà tôi từng được nhìn thấy, tuy nét mặt, có khác đôi chút (có lẽ tùy tâm trạng nghệ nhân khi đúc tượng) nhưng hai tai Phật đều được thực hiện như nhau. Đó là vành tai lớn và dài, biểu tượng lòng từ bi lắng nghe hết thảy thống khổ của nhân gian. Sự thật nhĩ căn của Phật có như thế hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng chính là lòng Từ Bi và Trí Tuệ tuyệt luân của Ngài. Lòng từ bi đã thúc đẩy Thái tử từ bỏ cung vàng điện ngọc trở thành sa-môn Gotama, quyết đi tìm con đường giải thoát khỏi trói buộc của khổ đau. Với trí tuệ và kiên cường, sau sáu năm khổ hạnh, sa-môn Gotama đã tìm ra tên cai ngục cái nhà tù khổng lồ từng triền miên giam hãm, trói chặt nhân loại trầm luân trong thống khổ. Tên cai ngục đó là Vô Minh. Vì vô minh mà chúng sanh cho Vô Thường là Thường, Khổ là Lạc, Vô Ngã là Ngã, Không là Tịnh. Đó là đầu mối của mọi khổ đau.

Tìm ra được sự thật đó, sa-môn Gotama lập tức thoát xác ! Bao giây trói vô hình chằng chịt bấy lâu như đều đứt tung ra ! Bao phiền não như vừa bật rễ, trốc gốc, ào ạt lăn trôi, mất hút. Chỉ còn vầng thái dương rực rỡ, khai sinh Đạo Cả cứu độ chúng sanh.

Và đó là lúc nụ cười mầu nhiệm nở trên môi sa-môn Gotama khi Ngài đạt Giác Ngộ, thành Phật; nụ cười ban vui, cứu khổ, nụ cười an ủi, chở che được tạc lại trên hầu hết tôn tượng Ngài. Chỉ cần tĩnh lặng chiêm ngưỡng nụ cười ấy, ta sẽ cảm ngay được lạc thọ của giòng suối trong vắt, ngọt lịm đang từ triền non cao chảy xuống miền đồng bằng nắng cháy. Nhìn kỹ thêm, hình như ẩn sau nụ cười đầy thương yêu, là lời dạy: “Ta là Phật đã thành; các con là Phật sẽ thành”. Lời dạy này cốt nhắc nhở chúng sanh phản quang tự kỷ, phải biết nhìn lại mình, phải biết gạn lọc sỏi đá cho hạt minh châu vốn sẵn có, sớm được hiển lộ.

Từ khi tự chuyển “Đến chùa lạy Phật” thành “Đến chùa ngắm Phật”, tôi có được bao nhiêu là an vui hồi nào không hay. Này nhé, vừa tới trước cổng chùa, tôi đã dặn lòng “Không cầu xin gì cả, chỉ ngắm Phật thôi”; thế là tâm mong cầu, hờn giận biến mất. Tôi đã “XẢ” được tâm thế gian bên ngoài. Sau đó, quỳ trước Phật đài với lòng nhẹ tênh, với tâm thanh tịnh, tôi thấy được ánh điện quang Từ Bi của Phật hiển lộ rõ hơn trên mắt, trên môi Ngài, trên suốt con đường Trung Đạo Ngài đã đi, thể hiện qua chính bản thân Đức Phật, dũng mãnh mà lặng thầm, uy nghi mà điềm đạm, trí tuệ mà đơn sơ, nhẹ nhàng mà quyết liệt ……. Bằng đời sống của chính mình, Đức Phật đã dung hòa, đã hóa giải mọi trạng thái đối nghịch của thế gian để từ đó, Ngài dẫn dắt chúng sanh tìm dần về con đường Giác Ngộ.

“Đến chùa ngắm Phật” còn vô tình giúp tôi cơ duyên liễu nghĩa được nhiều bài pháp mà trước đây càng nghe tôi càng mù tối, vì rõ ràng nghe thế, mà sao không phải thế ? Tri và Hành nếu chẳng đi đôi được với nhau thì Tri đó chẳng phải tri, mà Hành kia cũng chẳng phải hành !

Tới đây tôi mới thấm thía câu Phật dạy: “49 năm qua, ta chưa nói lời nào”.

Đóa sen đưa lên.

Nụ cười Ca Diếp.

Đã là bài pháp vô ngôn mà bất tận.

Tôi cứ tiếp tục cách “lạy Phật” của mình như thế. Nghĩa là, dù đến chùa nào tôi cũng lạy Phật bằng cách “Ngắm Phật” mà thôi. Chính vì chỉ ngắm Phật tôi mới khám phá ra rằng, cũng vẫn là tượng Phật Thích Ca với những nét tiêu biểu đặc thù nhưng thật ra không hề có tượng nào giống tượng nào cả, cho dù tôn tượng đó có cùng một xuất xứ. Tôi không cho là lạ vì ngoài nét tinh xảo khác nhau của mỗi nghệ nhân khi đúc tượng, còn tâm ý của Đức Thế Tôn trao cho người đúc tượng nữa. Chẳng phải ai cũng đúc tượng Phật được đâu ! Tại sao có những tác phẩm nghệ thuật qua nhiều ngàn năm vẫn là vô giá ? Vì đó là những tác phẩm CÓ HỒN. Với những tác phẩm này, chúng ta chỉ có thể cảm nhận mà không thể dùng bất cứ loại ngôn từ nào để giải thích hay diễn đạt được. Tượng Phật, tự thể đã mang ý nghĩa thiêng liêng, người đúc tượng Phật nếu còn biết đặt cả lòng thành kính trên việc làm này thì khi hoàn thành, bức tượng không thể chỉ là sự kết hợp của đất đá vôi vữa. Bức tượng sẽ mang những bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn, những bài pháp ẩn trong ánh mắt từ bi, qua môi cười độ lượng, trên vầng trán trí tuệ, nơi dáng ngồi kiết già vững chãi an nhiên, nơi vòng tay nhân ái muốn ôm hết muôn loài mà cứu độ ……

Tôi vô cùng xúc động khi khám phá ra điều đó. Nhờ thế, mỗi khi ngắm Phật tôi lại có cảm tưởng như đang được nghe bài pháp mới. Và niềm vui bất tận khi thầm lặng theo dõi bước chân Phật đã vô tình XẢ cho tôi mọi mong cầu ước muốn vị kỷ của nhân gian.

Ngay cả khi phải nhận những oan trái, vạ lây mà nhân thế vô tình hay cố ý ném vào, tôi cũng chỉ thấy đôi mắt Phật, nụ cười Phật bảo rằng “Hãy chọn sự im lặng của người Phật tử. Đó là sự im lặng của giòng sông”.

Diệu Trân

Tháng Hai 2005


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2014(Xem: 18561)
Chiều hôm nay, tôi đang ở trong cốc thì Thầy Viện Trưởng đến, Thầy gọi tôi và đưa cho tôi quyển sách này, Thầy nói: "Thầy thấy Từ Đức thích dịch sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma nên Thầy mua quyển sách này, con đọc rồi dịch, khi nào xong thì đưa cho Thầy!" Tôi thích quá, thật khó tả. Tôi chỉ mĩm cười, khẻ nói "Dạ" và cầm lấy quyển sách. Thế là ngay hôm ấy tôi liền bắt tay vào dịch những dòng đầu tiên của quyển sách để lấy ngày, 20 – 11 – 2010.
10/02/2014(Xem: 17621)
Lama Thubten Yeshe sinh năm 1935 tại Tây Tạng. Mới sáu tuổi, Ngài đã vào học tại Sera Monastic University ở Lhasa, một trong những tu viện lớn và nổi tiếng của Tây Tạng. Ngài học tại đây tới năm 1959
05/02/2014(Xem: 18919)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
16/12/2013(Xem: 15764)
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
16/12/2013(Xem: 12536)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 30391)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
11/12/2013(Xem: 19234)
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “ Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu ta không thân thì đâu có khổ gì ?”
11/12/2013(Xem: 17614)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
11/12/2013(Xem: 31753)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 21865)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567