Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một góc nhìn về Mẹ trong âm nhạc .

09/04/201312:18(Xem: 3694)
Một góc nhìn về Mẹ trong âm nhạc .


MỘT GÓC NHÌN
VỀ MẸ TRONG ÂM NHẠC

Giác Đạo Dương Kinh Thành
---o0o---

Quả đất gọi là nặng,
Nhưng lòng mẹ nặng hơn nhiều.

THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Như suối nguồn vô tận, đề tài nói về công ơn cha mẹ không thể cạn ý khô lời, nhất là ở lãnh vực Văn học-Nghệ thuật. Chỉ riêng khía cạnh thơ ca thôi cũng đủ làm chúng ta choáng ngợp, cảm thấy bé nhỏ dưới bầu trời vô tận của mênh mông tình mẹ.Với đạo lý nhà Phật, điều đó thêm trở nên thiêng liêng và ý nghĩa hơn. Người con Phật đã được ý thức rất sớm về điều thiêng liêng ấy nhờ vào nền tảng luân lý nhà Phật, như thế ai đó bất hiếu với cha mẹ sẽ chẳng bao giờ được thấy Ðạo; thế nên những tuyên ngôn (Sanh đời không có Phật, thờ cha mẹ tức thờ Phật”, bởi vì “Cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế”. Bởi vậy “Ðiều kiện cao tột không gì ơn hiếu, điều ác tột cùng không gì hơn bất hiếu”. Tự hào thay chúng ta đã có một vị Giảo chủ tuyệt vời đến thế–có gì đâu, sinh ra trong cõi này ai cũng có cha mẹ, chứ không từ trên trời rơi xuống hay từ đất nẻ chui lên! “Nước sông nọ có nguồn mới chảy, Hạt thóc kia có cấy mới lên, Phàm phu cho đến thánh hiền, Ví không cha mẹ sao nên thân người”, như một bài Sám văn đã viết. 

Chỉ tiếc rằng, người viết bài này không phải là một nhạc sĩ hay một nhà văn, nhà thơ đề có thể đóng góp phần bé nhỏ của mình vào văn đàn và nghệ thuật ca ngợi tình mẹ, nhất là nhạc sĩ của Phật giáo để diễn bày qua đó bằng pháp thoại lung linh, mang chút tham vọng chuyên chở một đạo lý tột cùng của con người từ lúc hãy còn chín tháng cưu mang.Và chỉ tiếc rằng không phải là một nhà hoạt động Văn hóa Phật giáo để nhìn xuyên qua khe nắng trần gian, góp nhặt từng hạt ngọc đời, đánh giá, tuyên dương văn-thơ-nhạc-họa đích thực của Phật giáo. Có hay chăng người viết vẫn chỉ là một chủng tử bé nhỏ trong rừng văn học nghệ thuật từng ngày, từng giờ đang học đòi làm một Phật tử. Do đó, những dẫn dụ được trình bày dưới đây không phải là công việc tổng hợp hay đi tìm nhân tố điển hình, mà là theo chủ quan–cảm nhận mang tính chất cá nhân. Còn lại–như đã nói–đó là công việc của các nhà hoạt động văn hóa Phật giáo.

Trong lãnh vực âm nhạc, đã có biết bao nhiêu bài ca về công ơn cha mẹ. Có bài đã trở nên tiêu biểu, đã đi sâu vào lòng người nhiều thế hệ. Ở đây, chỉ xin xét đến khía cạnh khác đó là tính đạo lý Phật giáo và đạo đức dân tộc trong một vài bài hát người viết có được trong “kho tàng” CD, cassette hiếm hoi của riêng mình. Người trước tiên không thể không nhắc đến là nhạc sĩ Trịnh CôngSơn. Nhắc đến ông, không vì sự kiện ông vừa tạm biệt “một cõi đi về”, mà trước hết qua một quảng đời niên thiếu của người viết lúc còn sinh hoạt Phật tử, các bài hát “Da vàng” của ông đã ghi đậm dấu ấn khó phai. Và qua rất nhiều tư liệu về cuộc đời cũng như sáng tác của ông, người ta cũng đã hiểu thêm được nhiều điều. Phần lớn những điều đó được gắn liền vào mỗi ca khúc trong hơn năm, sáu trăm ca khúc của ông, vì đó là sự thật của chính cuộc đời cũng như của chính cảm nhận của ông “Khi cần thì viết ra (sáng tác) không cần tưởng tượng chi cả”(1), đến nỗi nhạc sĩ Xuân Khoát phải thốt lên “Chữ của Trịnh Công Sơn như sẵn từ trong túi”. Qua đó, lần dỡ chúng ta sẽ thấy Trịnh Công Sơn sáng tác ban đầu cho đến khi mất theo trình tự như sau:

1- Ngẫu hứng và ảnh hưởng (do yếu tố trưởng thành và môi trường gia1o dục nhà trường và giáo dục bè bạn);

2- Bắt đầu định hướng dân tộc, ý thức cuộc đời nô lệ (qua các sự kiện gia đình, quân dịch, để có được những bài ca “phản chiến”);

3- Nhận thức rõ chân lý duyên sinh và rẽ ngoặc đi một đường thẳng cho đến ngày nhắm mắt.

Vì mỗi sáng tác là một phần sự thật cuộc đời ông nên công chúng đều quý yêu. Ðiều trân trọng quý yêu ấy dừng lại ngay tác phẩm đầu tay “Uớt mi” năm 1958 của ông! Ướt mi là một tác phẩm trữ tình, lãng mạn, điều đó quá rõ, nhưng vì là “một phần sự thật” nên ít ai còn biết thêm rằng nguyên do ra đời bài hát ấy xuất phát từ lòng thương cảm của một đứa con dành cho người mẹ đang mang bệnh lao giai đoạn cuối; mà người con gái ấy hằng đêm đi hát để kiếm tiền nuôi mẹ hằng một bài hát “tủ”: “Giọt mưa thu”, mỗi lần hát, cô đều khóc! Ðó là nữ ca sĩ Thanh Thúy–năm ấy cô chỉ mới 16 tuổi đời. Trịnh Công Sơn cho đó là một “giọt nuớc mắt rất thuần khiết của một người con gái”(2). Một người con trai 19 tuổi lần đầu cảm xúc để viết nên nhạc phẩm đầu tiên, lại nói về sự hiếu thảo, sao không đáng trân trọng và quý yêu, nào phải đâu đắm say lụy tình! Trịnh Công Sơn khóc cho mẹ người để nhiều chục năm sau bên mộ cha ở Huế ông khóc cho “Một cõi đi về” và sau nữa bên mộ mẹ mình ở Thủ Ðức ông khóc cho “Ðường xa vạn dặm”, trong đó bên mẹ ai cũng vẫn là một đứa trẻ, vẫn nũng nịu mẹ qua lời ca như trách móc: “Gối lệch chăn mềm–mẹ bỏ tôi đi, giấc ngủ chưa tròn–mẹ bỏ tôi đi. Mẹ bỏ tôi đi, đường xa vạn dặm...”

“Tôi ôm con sáo bé bỏng của tôi, theo cha dọc bờ sông trắng xóa. Hồng Hà mùa thu đẩy gió và tiếng súng...”(3). Con sáo ở đây, tức nỗi niềm người mẹ khi đưa “cha và anh hai vượt sông Hồng ở những năm 30-40...” nên lời ca sau đó là “thương cha, con sáo thủy chung của me. Thương anh, con sáo bứt ruột chờ mong...”, và vì nỗi lòng người mẹ nên “con sáo sang sông bạt gió và sóng, con sít thuơng ai, tìm ai...”. Phải đợi đến hơn mười năm sau, kể từ ngày nghe được bài hát này (1990-2000) đến khi có trong tay CD “Tự họa” tôi mới thật sự cảm nhận những điều có thật của người nhạc sĩ từng một thời vang tiếng “ngẫu hứng”–Vâng, chúng ta đang nói đến Nhạc sĩ Trần Tiến mà bài hát “Phố nghèo”(4)đã để lại dư âm rất da diết và lắng đọng, đã khiến phải nhắc đến trong bài viết này, trong khi âm nhạc Phật giáo chưa đủ sức tự khẳng định mình và đó đây đã xảy ra tình trạng manh nha, ỷ lại, xa rời vốn dĩ nơi mình sinh ra và lớn lên. Với NS Trần Tiến, anh đã quay về từ câu chuyện “Bắt đầu từ con phố ven sông chảy quanh kinh thành cổ... Sau 30 năm du ca trở về thăm phố cũ, bổng thấy mình cần dừng bước lãng du để thực hiên một số đĩa nhạc, dẫu đã muộn nhưng cũng đủ ghi lại đôi nét ký họa về những cơn đường đi qua, những người đã gặp chung cuộc hành trình trong cuộc đời ngắn ngủi này. Ðó là bức thông điệp của người con gởi mẹ quê nhà, của người con hàng vạn kiếp phôi pha...”. NS đã thổ lộ như thế và CD này anh ví một bức Tự họa đầu tiên mang tên: Phố nhỏ ven sông. Rất thật rất gần gũi bởi đó là những chuẩn mực đạo đức dân tộc đáng phải ca ngợi trước tiên.

Với bài “Phố nghèo”, chúng tôi cho đây là ca khúc chính của CD Tự họa của anh. Bởi vì nơi đó có mẹ, có tuổi thơ và những người thân của mình–phố Hàng Buồm, Hà Nội. Ký ức của anh màu nâu; cái màu của đất, bằng ánh mắt “Tâm Ðịa Quán” mang định chủ thể duyên sanh nhà Phật Chúng sanh chi tâm địa như đại địa. Ngũ cốc ngũ quả tùng đại địa sanh. Ngay như tâm tam giới cũng mang tên đất: Dĩ thử nhân duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa. Và cái màu nâu, chư Tổ sư chọn dùng may Tăng phục ý nghĩa như thế nào, cũng như ông bà ta xưa nay chọn màu nâu làm đồng áng ra sao hẳn chúng ta đã rõ. Nhà thơ Nguyễn Duy trong “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” có viết: “Mẹ ta không có yếm đào, Nón mê thay nón quai thao đội đầu, Rối ren tay bí tay bầu, Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa”. Vì vậy, rất dân tộc, rất thâm thúy khi NS Trần Tiến viết lời ca “Phố buồn nâu, mái ngói buồn nâu, cà phê đắng rơi từng giọt nâu buồn... phố của tôi, thơ ấu đời tôi...”. Càng ray rứt hơn khi NS thốt lên “Ở nơi đó tôi còn nhớ mẹ của tôi, bao đêm trắng, nhìn về phía chân trời. Mẹ cầu kinh đức Phật Quan Thế Âm, phù hộ cho con phiêu bạt trở về”. Ðất nước chiến chinh, bà mẹ nào cũng thế, cũng có nỗi đau riêng mình. NS Trần Tiến nhìn sang hàng xóm và nhớ lại: “Noel 1972, hai trái bom đi sai mục tiêu, đã ném vào cái phố nghèo bé bỏng của tôi... Chỉ thương anh hàng xóm đã ra đi không bao giờ trở về nữa. Nhớ về để nghe CD tình ca này tôi viết tặng anh. Tặng cả tuổi trẻ chúng ta đã dàn hàng ngang gánh đất nước trên vai...”(5). Dù mẹ chẳng còn, bạn bè tan tác nhưng phố cũ và kỷ niệm còn đó trong nghĩa tình đạo lý dân tộc, làm nên nguồn cảm hứng bao la này qua bàn tay “họa sĩ” của anh.

Cũng vậy, sẽ không còn những chốn dấu yêu để “trở về làng quê, bao tháng năm xa xôi cách biệt (...). Ngược dòng thời gian, bao dấu yêu xa xưa trở về. Nhớ hoài năm nào mẹ gian nan dãi nắng dầm sương, nhọc nhằn chăm lo cho đàn con, miếng ăn giấc ngủ từng đêm, những khi gió lạnh bên nhà tranh nghèo ấm êm tình thương...”(6). Dẫu rằng cảnh cũ làng xưa còn đó nhưng nó sẽ càng để lại dấu ấn sâu đậm hơn khi đấng sanh thành đã mất. Vì vậy thương sao lời thương tưởng “Hỏi từng bờ đê, gió hiu hiu mẹ tôi đâu rồi. Mái tranh im lìm nhìn hàng tre ngơ ngác buồn hiu. Mẹ hiền yêu ơi suốt đời con, mãi luôn khắc ghi ơn mẹ cha, sẽ không phai nhòa, tháng năm êm đềm sống bên mẹ cha”(6). Người nhạc sĩ có những lời ca rất đẹp này lại cũng là ca sĩ, còn rất trẻ. Ðó là Ngọc Sơn. Nhắc đến Ngọc Sơn, người viết tự đặt câu hỏi: Nếu cũng với những ca từ đẹp về mẹ ấy mà người sáng tác khônglà Ngọc Sơn thì chúng ta có liệt kê vào loại nhạc “sến” không? Có lẽ là không. Vì vậy nhân đây xin nói lên suy nghĩ chủ quan rằng cái gọi là “nhạc sến” ấy chỉ xuất hiện từ giữa thập niên 80(7)nhằm ám chỉ cho loại nhạc “lụytình–rên rĩ–ướt át...” Khi những dòng nhạc mới đang thịnh hành (Country, Pop, Rock, Rap...) hoặc cách tân, theo chiều huớng mode để chứng tỏ mình tiến bộ. Kỳ thật, chưa có một luận cứ khoa học nào là “không phải sến”. Rõ ràng đây là vấn đề thuộc về thị hiếu–thẩm mỹ âm nhạc theo từng sở thích riêng, môi một dòng nhạc đều có một bộ phận công chúng khác nhau. Ðiều đó được thể hiện tại sao nhạc “sến” vẫn tồn tại, và đặc biệt chính nó lại dễ dàng chuyền tải tình cảm hơn bất cứ dòng nhạc nào, ngay cả với giới thưởng thức bình dân nhất. Theo suy nghĩ riêng, chỉ có khác nhau chăng (“sến”) là ở từ ngữ thể hiện trong dòng nhạc, chứ tự thân nhạc vốn đã là không “sến”. Ngay như bản thân chúng tôi, khi thư thả nghe nhạc giao hưởng, tình tứ hơn thì nghe nhạc jazz, rộn ràng thì nghe Pop, Rock hoặc Rap,v.v... và còn có các thể loại tình ca khác nữa nếu muốn có chút lãng mạn, trữ tình. Trình bày sơ lược như trên để hiểu đôi chút về Ngọc Sơn, đặc biệt để trân trọng về một tấm lòng dành cho bậc sanh thành qua ca khúc của anh. Tấm lòng đó hoàn toàn hợp đạo lý dân tộc, không “sến” chút nào. Anh đi lên từ bài “Lòng mẹ” đầu tiên của anh, rồi đến “Tình mẹ” (chưa kể những bài nói riêng về cha), để hôm nay thật bất ngờ khi nghe sáng tác “Ðạo làm con”, chúng tôi trộm nghĩ chưa có một bài nhạc nào mạnh dạn viết “Con quỳ con lạy mẹ cha, ơn cha nghĩa mẹ con đền được là bao...” Chỉ riêng từ “con quỳ con lạy mẹ cha...” thôi cũng đủ nói lên trọn vẹn đạo nghĩa dân tộc. Cái quỳ, cái lạy sao mà sâu xa đến vậy, không cần phải diễn đạt nhiều lời hoa mỹ. Và chúng tôi thêm một lần trân trọng Ngọc Sơn trong ý nghĩa báo ân cha mẹ qua âm nhạc. Chuyện riêng tư, danh vọng, tiền tài ở anh không là mục tiêu bài viết này.

Tất nhiên, “Hiếu thế tục chỉ hầu cơm nuóc. Hiếu Phật đà giải thoát luân hồi”, nên nếu có được những lời ca đặc thù Phật giáo như “Mẹ là Từ bi Bồ Tát hiện xuống bên con, mẹ là hạt mưa hạt nắng rực sáng muôn hoa... Mẹ là chuông chùa thắm đầm ấm muôn nơi, tình mẹ là hương ngàn hoa dịu mát không gian...” thì khó tìm được một nhạc sĩ như Giác An trong bài “Mẹ” ấy. Hơn thế nữa, để có một người mẹ trong Phổ Môn khi nhạc sĩ Bửu Ấn viết: “Mẹ tôi mẹ của muôn loài, không sinh không diệt, tên là Quán âm...” (Bài “Quan Thế âm Bồ Tát”) lại càng hiếm hơn. Lấy thời điểm gần nhất là từ bài “Mẹ” của NS Giác An, đến nay đã 10 năm, vẫn chưa có được bài nhạc nào tương tự để có thể đặ tvấn đề phát huy âm nhạc Phật giáo. Câu hỏi đến nay vẫn còn nguyên giá trị thách thức trách nhiệm của các nhà hoạt động Văn hóa Phật giáo hiện thời./.

Chú thích

1. Trả lời trong chương trình “Tác giả - Tácphẩm” FM 99 90. Ðài TNND - TP. HCM, năm 2000.

2. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – Một cỏi năng thuần khiếp cùng cuộc đời – Ngô Ngọc Ngũ Long. SGGP – 10/5/1998.

3. Lời bài hát “Ngẫu hứng sông Hồng”của NS Trần Tiến.

4. CD “Tự họa” gồm 10 ca khúc tự thuật theo dạng truyện hồi ký của NS Trẫn Tiến, do chính NS và người cháu gái là ca sĩ Trần Thu Hà hát. CD Phương Nam Phim phát hành tháng 10/1999.

5. Bài “Người thích tình ca” do chính tác giả hát trong cùng CD “Tự họa”.

6. Lời bài hát “Tình mẹ”của Ngọc Sơn.

7. Trước 75, người ta chỉ có đánh giá một loại nhạc gọi là “nhạc thương mại”, gần như lên án như kiểu gọi “sến” hiện nay. Tuy nhiên xét về khía cạnh hoàn cảnh xã hội đương thời, chinh chiến bắt lính... thì không thể đánh giá thấp người yêu thích “nhạc thương mại”, khác xa các bài hát về “lính Cộng hòa”.

(Trích Tập văn VU LAN, số 54 PL 2546 – 2002)



--- o0o ---

Vi tính: Hồ Mỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2010(Xem: 6846)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
17/09/2010(Xem: 3905)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
10/09/2010(Xem: 50864)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
03/09/2010(Xem: 5251)
Ở Tây Tạng, núi non thường được xem như nơi cư ngụ của những bổn tôn. Thí dụ, Amnye Machen, một ngọn núi ở Đông Bắc Tây Tạng, được coi như trú xứ của Machen Pomra, một trong những bổn tôn quan trọng nhất của Amdo, tỉnh nhà của chúng tôi. Bởi vì tất cả những người ở Amdo xem Machen Pomra là người bạn đặc biệt của họ, nhiều đoàn người đi vòng quanh chân núi trong cuộc hành hương.
28/08/2010(Xem: 52384)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6655)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51707)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9290)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20831)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
22/07/2010(Xem: 12150)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567