Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nắng trên sông Neranjara

09/04/201312:17(Xem: 3344)
Nắng trên sông Neranjara

NẮNG TRÊN SÔNG NERANJARA

Diệu Trân

--- o0o ---

Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara. Trong không gian ấm áp đó, một vị sa-môn như đang cố gắng tiến về bến sông. Nhìn thân hình quá gầy ốm, tiều tụy của ông, ai cũng có thể biết rằng ông là một nhà tu khổ hạnh như rất nhiều nhà tu khổ hạnh khác, dùng hình thức ép xác để mong tìm sự giải thoát cho tâm linh. Vị sa-môn này đã quá yếu, bước chân khẳng khiu nghiêng ngả như không mang nổi tấm thân chỉ còn da bọc xương. Nhưng bước đi xiêu vẹo của ông rõ ràng là có chủ đích. Đúng thế, sa-môn muốn xuống tắm gội dưới sông Neranjara, một việc mà lâu nay ông đã chẳng bận tâm làm ! Nhưng trong buổi sáng nắng vàng này thì khác vì ông vừa nhận ra rằng thân và tâm chẳng thể rời nhau, trái lại, thân có khỏe thì tâm mới sáng, tâm có sáng mới quán chiếu sự vật tinh thông. Và ông có một quyết định quan trọng là xả bỏ lối tu khổ hạnh để chuyên tâm thiền định lắng sâu hơn. Ông sẽ xuống sông tắm gội rồi sau đó, sẽ ôm bát vào làng xóm khất thực. Quyết định này ông chưa kịp nói cho năm người bạn đồng tu biết nhưng ông tự nhủ, rồi sẽ tìm họ sau, cũng không muộn.

Khó nhọc lắm, rồi vị sa-môn cũng lần được tới ven sông.

Neranjara là con sông chảy qua ngôi làng nhỏ Uruvela gần thị trấn Gaya hướng đông nam Ấn Độ. Bên kia sông là làng mạc, đồng cỏ, ruộng lúa. Bên này sông thì chỉ có rừng cây, đặc biệt là những cây pippala tuổi thọ hàng mấy trăm năm, đã khoác lên khu rừng một vẻ đẹp vừa hùng tráng, vững chãi vừa dịu dàng êm mát. Khi chảy ngang qua đây, sông có những khúc rất cạn, trẻ mục đồng có thể lùa trâu qua rừng khi trâu đã ăn cỏ no nê ở bờ bên kia để khỏi phải canh chừng trâu dẫm đạp lên ruộng lúa. Nhưng cũng có nhiều khúc khá sâu, nước trong và mát, khách bộ hành đường xa mỏi mệt có thể xuống tắm một lát là lại khỏe khoắn đi tiếp. Neranjara, tự thân chỉ có thế, chỉ như muôn ngàn con sông khác, nhưng nhân gian đã đội vương miện lên cho nó vì chính nơi khúc sông này, một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn triệu người - đã từng xuống tắm. Rồi khu rừng nữa, nó cũng chỉ như bao khu rừng khác nhưng nhân gian đã tô phết hào quang lên nó chỉ vì dưới bóng đại thụ đã có một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn triệu người - đã từng ngồi thiền định. Giòng sông đó, khu rừng đó và vị sa-môn quyết không rời gốc đại thụ nếu không tìm ra đường giải thoát, nay, đã trở thành những biểu tượng tột cùng thiêng liêng, tột cùng tôn quý đối với thế nhân. Nhưng tự thể, giòng sông Neranjara không hề khác gì hơn sau khi được đội vương miện. Khu rừng pippala cũng thế, vẫn thản nhiên bốn mùa mưa nắng dù được sơn phết hào quang; nhưng mấy ai nhận ra rằng những vương miện tưởng là rực rỡ đó, những hào quang tưởng là sáng chói đó chẳng có một chút giá trị nào đối với sông kia, rừng nọ mà Cáigiá trị vô giá là ở những phương thức giải thoát, người đạt đạo đã tìm ra nó chỉ vô giá với ai nhận biết rồi thực hành. Biết mà không hành thì nó vẫn chỉ là vô giá trị. Theo dõi bước chân người đạt đạo để thấy rằng, trước khi ánh sao mai kỳ diệu hiện lên ở canh ba, soi tỏ lẽ vô thường vô ngã; trước khi nắm được chìa khóa của tên cai ngục phiền não vô minh, người ấy cũng như bao nhiêu sa-môn, đạo-sỹ khác, lang thang đó đây khổ công tìm đạo, vấp váp sai lầm …..Chỉ khác, cái dũng của người trí tuệ là không chùn bước trước gian khổ, hiểm nguy thử thách. Người đó chỉ nhìn thẳng vào mục đích đã vạch ra. Mục đích đó là tự độ rồi độ tha. Đường đi của những người chỉ sống vì lợi ích chúng sanh không bao giờ là những con đường bằng phẳng, dễ đi. Nghe có vẻ nghịch lý nhưng chỉ suy nghĩ một chút thôi nó sẽ rất dễ hiểu vì tâm thế gian vốn hẹp hòi, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, tham sân……Làm sao những cái tâm ấy dễ dàng để cho những người tốt lành, nhân ái, trong sạch hơn họ làm những điều họ không làm được ?

Dù là Phật tử hay không, chúng ta cũng đã ít nhiều biết về con người trí tuệ vô song từng xuống tắm trên giòng sông Neranjara, từng ngồi thiền trong rừng cây pippala gần 2600 năm trước. Người đó đã tìm ra Đạo Cả, người đó được môn đồ tứ chúng gọi ngài là Phật. Phật là giác ngộ, Đạo Phật là đạo giác ngộ. Dù đã tìm ra chân lý, dù đã miệt mài đi khắp đó đây giáo hóa cho chúng sanh cùng khổ, dù đời sống ngài chỉ vì lợi người nhưng suốt 49 năm hoằng pháp ngài thường xuyên gặp kẻ chống báng, vu cáo, bôi lọ, ganh ghét, tỵ hiềm…..Với tất cả bao chuỗi ác nghiệp trùng trùng bất tận đó Đức Thích Ca Mâu Ni vẫn bình tâm hoằng pháp và chỉ dùng hai thứ khí giới là Từ Bi và Trí Tuệ để chuyển nghiệp cho kẻ tạo nghiệp. Và sự thật vẫn là sự thật. Trong màn đêm vô minh, sự thật là đuốc. Người biết nương đuốc mà đi sẽ tới nơi muốn tới. Chỉ những kẻ tự bịt mắt mình mới không thấy đuốc mà thôi.

Hãy như Sujata, Svastika, Rupak, Bala…..những đứa trẻ hồn nhiên hiền hòa trong thôn Uruvela, chúng cúng dường sa-môn Gotama cũng như khi đảnh lễ Phật Thích Ca chỉ cùng một tâm trong suốt. 

Hãy như ngũ huynh đệ Kondanna, tuy bất đồng vì không hiểu rõ nguyên do sa-môn Gotama chuyển phương pháp tu tập, nhưng khi biết ra liền xả bỏ tự ngã để hài hòa.

Hãy như voi Nalagiri, nhận ra tiếng hú voi chúa qua âm thanh của Phật là lập tức ngưng ngay sự ác độc hung hãn mà nó được lệnh phải thi hành.

Hãy đừng như Đại Đức Devadatta, ném đá toan sát hại Phật chỉ vì lòng ganh tỵ

Hãy đừng như các giáo phái chống đối Phật thời Phật còn tại thế, chỉ vì tự ái ghét ghen.

Hay, cho đến rốt ráo, tâm thế gian nếu chẳng thể nhu hòa từ ái thì xin hãy được như giòng sông Neranjara, sang không mừng, hèn không tủi vì nó hiểu rằng sang hèn chỉ là thước đo của nhân gian vọng động. Neranjara chỉ đích thực là giòng sông khi nó lặng thinh mà trong suốt, thực chứng tâm đạo, ý đời, một nguồn xuôi chảy, dù gần 2600 năm trước, vị sa-môn ngồi thiền trong cánh rừng bên kia sông có từng xuống tắm hay không.

Hãy như con nước chảy

Vương bước chân người qua

Nước xuôi giòng ra biển

Tâm người sẽ thăng hoa. 

Diệu Trân


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2019(Xem: 24055)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 23647)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 23069)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 13502)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
22/05/2019(Xem: 4804)
Phần này bàn về cách dùng thì (tiếng Anh tense ~ temps tiếng Pháp) vào thời các LM de Rhodes và Maiorica sang truyền đạo ở An Nam cho đến thế kỉ XX. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
10/05/2019(Xem: 12993)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
04/01/2019(Xem: 82687)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
18/06/2018(Xem: 6857)
Đầu tiên Hiệp Hội Tương Trợ Người Đông Dương vùng Springvale được thành lập vào tháng 7/1983 nhằm phục vụ và giúp đỡ cộng đồng người Đông Dương trong vùng sớm hội nhập thành công vào xã hội mới với những sinh hoạt hoàn toàn khác lạ so với cuộc sống tại quê nhà của chúng ta. Song song với các hoạt động xã hội nhằm giúp đỡ đồng bào tị nạn trong vùng, Hiệp Hội nhận thấy nhu cầu cần thiết cho con em chúng ta lại tiếp tục duy trì tiếng Việt. Vì nhu cầu đó, trường Việt Ngữ Springvale được thành lập vào đầu năm 1983 do anh Trần Thiên Chưởng điều hành.
03/06/2018(Xem: 21776)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
03/03/2018(Xem: 23280)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567