Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhục thân Hòa thượng Hổ Phách tại Thái lan.

09/04/201312:16(Xem: 5194)
Nhục thân Hòa thượng Hổ Phách tại Thái lan.

Nhục thân
Hòa thượng Hổ Phách tại Thái lan

Trên Trang nhà Đạo Phật ngày nay, vào tháng 1 năm 2007, Thầy Nhuận Ân có viết một bài giới thiệu về nhục thân Hòa thượng Phổ Sái tại chùa Khánh Vân, thủ đô Bangkok, Thái lan. Từ bài viết đó, tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết tại Thái lan, ngoài nhục thân của Hòa thượng Phổ Sái tại chùa Khánh Vân còn có một nhục thân nữa. Đó là nhục thân của Hòa thượng Hổ Phách tại thất Khánh Thọ[1]thuộc tỉnh Kanchanaburi, cách thủ đô Bangkok hơn 100 km.

hthophach-nhucthan-2

Sau đây chúng tôi xin dịch bản tóm tắt tiểu sử của Hòa thượng Hổ Phách, được ghi bằng Hán văn, dựng ngay trong tổ đường, nơi thờ nhục thân của ngài tại thất Khánh Thọ.

Thiền sư Hổ Phách tên là Trần Xuân Dụ, phụ thân tên Trần Chiếm và mẫu thân tên Lâm Đức Ma. Ngài là huynh trưởng trong gia đình có ba anh em trai. Ngài sinh tại tỉnh Kanchanaburi vào năm Phật lịch 2447 tức năm Giáp Thìn 1904. Năm 11 tuổi ngài xuất gia tại chùa Khánh Thọ[2], thờ Hòa thượng Bạch Ngọc[3]làm bổn sư. Thiền sư Hổ Phách một đời từ bi thương người, chuyên tâm tu học, chăm chỉ hành thiền, không giữ tài vật, xả bỏ tất cả, trường trai thanh tịnh, chuyên cần tụng niệm, luôn nhập thiền định, cầu sớm ngộ đạo, liễu thoát sinh tử, quyết tâm trừ bỏ tất cả dục tình; do đó đạt được trí tuệ, đạo đức, Phật tử xa gần tôn sùng quy ngưỡng. Vào ngày 1 tháng 2 năm Phật lịch 2493 tức thứ Tư ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Sửu1949, tại thất Khánh Thọ này, Thiền sư Hổ Phách viên tịch một cách nhẹ nhàng như người đang ngủ, hưởng thọ 46 tuổi, xuất gia hành đạo được 35 năm. Sau khi ngài viên tịch được 7 ngày, môn đồ đặt kim quan của ngài tại thất Khánh Thọ này, định ba năm sau tổ chức lễ hỏa táng. Nhưng ba năm sau, khi mở nắp kim quan, thân của thiền sư không bị hủy hoại, da thịt khô, sáng, mắt hơi mở, tượng giống như hồi còn sinh tiền không khác. Thiện tín xa gần đều đến tham quan và tất cả đều công nhận rằng thiền sư Hổ Phách tu hành đắc đạo, đạt được diệu qủa. Ban quản lý thất Khánh Thọ cùng nhau bàn bạc, cuối cùng quyết định phủ vàng lên nhục thân của ngài và thờ nhục thân của ngài tại tổ đường này.

Trên đây là sơ lược tiểu sử của thiền sư Hổ Phách tại thất Khánh Thọ. Tiểu sử này qúa sơ sài, không cho chúng ta biết nhiều về hành trạng của ngài và lý do tại sao ngài lại viên tịch tại thất chứ không phải là chùa Khánh Thọ nơi ngài xuất gia. Và sự khác nhau giữa chùa Khánh Thọ và thất Khánh Thọ là gì. Rất may, vì thiền sư mới viên tịch cách đây khoảng 60 năm nên chắc chắn còn có nhiều người đang sống biết về hành trạng của ngài. Chúng tôi được gặp và nghe Hòa thượng trụ trì chùa Sắc tứ Cảnh Phước ở Bangkok, Thái Lan, là đệ tử út của thiền sư Hổ Phách kể về cuộc đời của bổn sư mình. Sau đây là lời kể của Hòa thượng trụ trì chùa Cảnh Phước :

“Thiền sư Hổ Phách rất thông thạo tiếng Việt, xuất gia với Hòa thượng Bạch Ngọc tại chùa Khánh Thọ. Phái Annam Nikaya[4]tại Thái lan ngày xưa không có nhiều tăng sĩ nên sau khi vị Hòa thượng trụ trì của một ngôi chùa nào đó viên tịch thì chùa thỉnh chư tăng từ các chùa khác đến trụ trì. Cho nên khi Hòa thượng trụ trì chùa Hội Khánh[5]viên tịch, bổn sư cử thiền sư đến đây làm trụ trì. Sau đó, các Hòa thượng lại cử thiền sư đến trụ trì chùa Sắc tứ Khánh Vân nơi đang thờ nhục thân của Hòa thượng Phổ Sái.Thời gian này chiến tranh tại Việt nam đã bắt đầu và đang tiếp diễn[6], ngài lại được Hòa thượng Giác Mẫn cử về trụ trì chùa Long Sơn nằm dưới chân núi nhưng ngài không nhận chức vị trụ trì, chỉ xin được ở trong chùa như một vị tăng sĩ bình thường và chuyên tâm hành đạo. Tại chùa Long Sơn, hàng ngày ngài lấy việc tụng kinh, bái sám và hành thiền làm thời khóa chính. Trong thời gian này ngài cũng thường xuyên nhập thất để tọa thiền và niệm Phật, không giao tiếp với bất cứ ai. Khi nào chùa có việc gì quan trọng thì viết giấy gởi vào cho ngài. Tình hình chiến sự tại Việt nam ngày càng phát triển và nhận thấy chùa Long Sơn không phù hợp với việc tu học của mình nên cuối cùng ngài xin về thất Khánh Thọ. Tại đây, ngài nhập thất, hàng ngày tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền, chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ ngọ, do thị gỉa mang vào thất cúng ngài. Trong thời gian cư ngụ tại chùa Long Sơn ngài thường xuyên nhập thất nhưng lại giúp về mặt phong thủy cho rất nhiều chư tăng, Phật tử Việt cũng như Thái xây dựng chùa hoặc nhà. Ngài chỉ ở trong thất, ghi trên giấy phương hướng hợp với tuổi tác xây dựng v.v... Đây là điều hiếm có nên chư tăng và Phật tử cho rằng ngài đã chứng qủa A la hán. Sau khi ngài viên tịch một tuần, da thịt của ngài không đông cứng lại mà vẫn mềm mại như người đang sống, trong tư thế ngồi chắp tay niệm Phật. Do đó các đệ tử của ngài dùng dây cột vào bụng ngài để giữ thăng bằng, giúp cho nhục thân ngài có thể ngồi bền vững[7], sau đó đóng một quan tài hình trụ để quàn nhục thân của ngài tại thất Khánh Thọ. Hai năm sau khi mở quan tài hình trụ ra để nhập tháp thì thấy nhục thân của ngài vẫn còn nguyên vẹn trong tư thế ngồi chắp tay niệm Phật. Phật tử xa gần đến đảnh lễ và biết ngài đã đắc qủa nên thờ nhục thân của ngài tại tổ đường thất Khánh Thọ cho tới ngày nay.”

hthophach-nhucthan-1

Theo hai nguồn tư liệu trên, thiền sư Hổ Phách tuy sanh ở Thái lan nhưng nói thông thạo tiếng Việt. Chỉ muốn chuyên tâm hành đạo nên tuy được cử làm trụ trì nhiều ngôi chùa nhưng ngài đều từ chối, cuối cùng chọn thất Khánh Thọ làm nơi hành đạo và viên tịch tại đây. Nhục thân của ngài ngày nay được phủ một lớp vàng bên ngoài[8]có lẽ do phần bụng bị hư hoại. Nhưng điều đặc biệt, tư thế ngồi của ngài hoàn toàn khác thế ngồi của các nhục thân mà chúng ta biết được. Nhục thân của các vị cao tăng chúng ta biết được từ trước đến nay ngồi theo tư thế thiền định kết già hoặc bán gìa. Còn thế ngồi của thiền sư Hổ Phách là niệm Phật chắp tay. Như vậy, ngài viên tịch trong khi đang niệm Phật. Nói cách khác, ngài vãng sanh trong khi đang niệm Phật.

Thích Giác Dũng



[1]Tên chữ Hán của thất Khánh Thọ là Khánh Thọ đường. Tuy nhiên, ngày nay cũng trở thành chùa. Nhưng để phân biệt với chùa Khánh Thọ nơi ngài Hổ Phách xuất gia, chúng tôi gọi nơi tôn thờ nhục thân của ngài là thất Khánh Thọ.

[2]Chùa Khánh Thọ nếu nói đủ là Sắc tứ Khánh Thọ tự, thuộc tỉnh Kanchanaburi nhưng cách thất Khánh Thọ nơi thờ nhục thân của ngài Hổ Phách khoảng 30 km.

[3]Hòa thượng Bạch Ngọc có hình thờ tại chùa Khánh Thọ và theo bài vị ghi tại Tổ đường thì Hòa thượng Bạch Ngọc thuộc đời thứ 43 của Tào Động tông. Do vậy, ngài Hổ Phách thuộc đời 44 của Tào Động tông.

[4]Chỉ cho các ngôi chùa Việt Nam Bắc tôngtại Thái Lan. Ngày nay thống kê có 17 ngôi chùa nhưng không còn vị trụ trì nào là người Việt.

[5]Chùa Hội Khánh trước kia gần con sông Chaophraya của Bangkok. Theo lời của Hòa thượng trụ trì chùa Cảnh Phước thì đa số các ngôi chùa Việt nam xây dựng trên Thái lan đều nằm gần những con sông chùa Khánh Thọ cũng nằm gần sôngđể có thể liên lạc với chính quyền Việt nam thời xưa và có thể báo tin tức cho đất nước về tình hình chính trị thời chiến tranh.

[6]Có lẽ là các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp.

[7]Chính vì điều này mà sau này phần bụng của ngài bị hư hoại hết, không còn nguyên vẹn. Nhìn vào tấm hình chụp nhục thân của ngài ba năm sau khi viên tịch sẽ thấy phần bụng của ngài không còn nguyên vẹn.

[8]Trong khi nhục thân của Hòa thượng Phổ Sái tại chùa khánh Vân thì còn được giữ nguyên theo trạng thái nguyên thủy tức không phủ vàng như nhục thân thiền sư Hổ Phách, không phủ lớp sơn như nhục thân của hai ngài Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Việt nam.

----o0o---


Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 16690)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11753)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12212)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15100)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
07/05/2021(Xem: 16803)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12613)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 20251)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11720)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9184)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
18/03/2020(Xem: 4361)
Phần này bàn về cách dùng tiền gián, bẻ tiền bẻ đũa thời LM de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La. Đây là tục lệ rất ít tài liệu nào ghi nhận. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567