Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam bộ nhất bái.

09/04/201312:11(Xem: 5297)
Tam bộ nhất bái.

TAM BỘ NHẤT BÁI

Diệu Trân

--- o0o ---

Người bạn đạo nói với tôi rằng, đọc sách về gương tu học của người xưa, lòng chỉ biết ngưỡng phục chứ theo thì làm sao theo nổi. Tôi nói bạn cho một thí dụ thì bạn bảo “Tam bộ nhất bái.”

Chiều hôm đó, bạn ghé tôi để mượn một cuốn sách. Tôi cũng có chút thì giờ nên pha bình trà và chúng tôi ra vườn sau, ngồi trong lều trúc, cùng trao đổi về “Tam bộ nhất bái”, là hạnh nguyện của Đại lão Hòa Thượng Hư Vân năm ngài 43 tuổi, muốn báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.

Hòa Thượng Hư Vân sanh tại tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, năm 1840. Từ thuở ấu thơ ngài đã tỏ ý chí xuất trần nên dù bao nhiêu cản trở ngài vẫn quyết một lòng lặn lội tìm thầy học đạo. Ngài từng tu khổ hạnh “Tam thường bất túc”, ngày chỉ ăn một chén cơm nhỏ và ai cho gì thêm cũng không nhận, y áo chỉ có hai bộ đổi thay dù đông hàn giá lạnh hay hè rực lửa nồng. Miệt mài nhiều năm chẳng thấy được gương tâm, ngài quyết dốc lòng tận lực thêm nữa, bèn rời nơi thị tứ, tìm vào hang động rừng sâu, ăn đọt lá, uống nước suối, màn trời chiếu đất, y áo rách rưới tả tơi chẳng đủ che thân ngài vẫn chẳng màng. Vậy mà lạ thay, sức khỏe của ngài mỗi ngày mỗi thêm tráng kiện, tâm nhẹ như mây, bước nhanh như gió, tai nghe tiếng từ xa, mắt thấy vật nhiều dặm. Nhận ra sự đổi thay nơi công lực, ngài rời hang động, vân du đây đó để tự kiểm chứng. Trên bước đường du hóa, tình cờ ngài gặp một đạo sư. Thấy diện mạo cổ quái của ngài, vị đạo sư hỏi ngài tu theo môn phái gì? Ngài thành thật trả lời là ngài theo gương người xưa, “ép xác tìm tâm” tự tu tự chứng. Vị đạo sỹ bèn nói: “Vậy là ngài chỉ học theo cách tu thân thôi, còn người xưa tu tâm ra sao, ngài có biết hay không? Tu thân cách này, bất quá chỉ giải thoát mình chứ chẳng cứu được ai. Nếu phát Bồ Đề Tâm theo lời Phật dạy thì tuy tu đạo xuất thế gian mà phải không rời thế gian pháp mới là con đường Trung Đạo.” Nghe thế, ngài giật mình, tỉnh ngộ, từ đấy đem sở học bôn ba hoằng pháp.

Suốt cuộc đời 120 năm, không lúc nào ngài ngưng nghỉ Phật sự, đi tới đâu cũng tu sửa chùa chiền đổ nát vì chiến tranh, thiết lập đạo tràng, dìu dắt tứ chúng. Ngài đã đạt thành 10 hạnh nghiệp lớn lao mà Tam Bộ Nhất Bái nằm trong Hạnh Hiếu Thảo.

Khi đọc lên bốn chữ Tam Bộ Nhất Bái, ai cũng có thể hiểu là “Đi ba bước, lạy một lạy” nhưng hình dung ra bốn chữ này thì thật khó tưởng tượng là đi thế nào, lạy thế nào; đi đâu và lạy ai? Hạnh nguyện của ngài quả là điều ngoài sức con người. Với bối cảnh chiến tranh, loạn lạc thời xưa, đường xá gập ghềnh, núi đồi ngăn trở, thú dữ khắp nơi, khí hậu nghiệt ngã …..một vị tăng đơn độc, lặng lẽ, cứ bước ba bước lại quỳ xuống, thành tâm lạy một lạy suốt non ba ngàn dặm gian nan, quả thật là không ai theo nổi. Nhưng khi khởi tâm nguyện, có lẽ ngài chỉ tự nghĩ rằng, ơn cha mẹ như trời biển, làm con chẳng đền đáp được mảy may; Nay, cha mẹ không còn, muốn báo đền hãy tận dụng hết tâm hết lực mà thôi. Tâm lực ấy, nếu không thực hành thì biết thế nào mới là hết tâm hết lực. Với ý nghĩ đó, ngài tự nguyện sẽ khởi đi từ hướng đông núi Phổ Đà tới hướng bắc núi Ngũ Đài, đường thiên lý hiểm trở gian nan đó dài non ba ngàn dặm !!!!!.

Trong lều trúc bình yên, giữa khu vườn chan hòa nắng ấm, người bạn đạo của tôi rơi nước mắt khi chúng tôi nói tới đoạn ngài suýt tử vong bên bờ sông Hoàng Hà vào mùa đông tuyết rơi ngập lối. Khi ngài quỳ lạy đến nơi này thì trời đổ bão tuyết; chung quanh hoang vắng, không nhà cửa, không bóng người, chỉ thấy một chòi lá ven sông. Ngài vào đó trốn tuyết nhưng chòi lá trống trải, bốn bề gió thốc. Tuyết tiếp tục rơi ba ngày ba đêm. Đói, lạnh đã đưa ngài dần vào hôn mê …..Giữa ranh giới của sự sống và cõi chết, ngài bỗng lờ mờ thấy dáng dấp một người hành khất bước vào chòi. Người ấy cởi bớt y phục của mình mà đắp cho ngài, lại lấy trong túi vải một nắm gạo rang, nhóm lửa, nấu cháo rồi đỡ ngài dậy. Ngài được người hành khất đó cứu sống, không phải chỉ một lần mà hầu như suốt chặng đường gian truân, khi nào gặp hiểm nguy cùng cực thì người ấy lại tình cờ có mặt. Suốt thời gian thực hành hạnh nguyện, chỉ trừ khi qua sông, lội suối hoặc bão giông không thể cất bước, ngoài ra, ngài không hề ngưng nghỉ, chỉ Nhất Tâm bước ba bước, quỳ xuống lạy một lạy. Cuối cùng, sau ba năm ròng rã, ngài cũng tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài. Nơi đây, ngài muốn tìm tung tích người hành khất ân nhân để tạ ơn thì một lão- sư, khi nghe xong câu chuyện đã điềm đạm bảo ngài rằng: “Chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đó. Bồ Tát thường hiện thân hành khất trợ duyên cho người cầu đạo.” Nghe thế, Hòa Thượng Hư Vân sụp xuống, lạy khắp mười phương tạ ơn vị Bồ Tát xuất thế gian mà không rời thế gian pháp. 

Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây. Ôn lại truyện xưa, chúng tôi cùng quán chiếu để hiểu rằng noi gương xưa không phải là noi theo đúng hình thức mới là theo, mà phải hiểu cốt lõi, tinh túy của sự việc, của hành động. Đại lão Hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta những gì qua hạnh nguyện phi thường mà ngài đã đạt ? Ngài dạy chúng ta sự quyết tâm. Phàm làm gì cũng phải quyết tâm. Quyết tâm là hùng lực đưa tới thành công vì nếu không quyết tâm thì chỉ một trở ngại nhỏ cũng đủ khiến tâm lung lay, thối chuyển; Khi tâm lung lay, thối chuyển rồi thì sự thành công sẽ ở ngoài tầm tay.

Với hoàn cảnh xã hội khác xưa, với tâm lực yếu kém, chúng ta chẳng thể vượt ba ngàn dặm, ba bước lạy một lạy mới là tu, mà phải tỉnh thức biết rằng trong sinh hoạt hàng ngày, nếu ta cố gắng bớt một phần tập khí là thêm một phần sáng suốt; bớt mười phần phiền não sẽ chứng một phần Bồ Đề. Luôn tâm niệm như thế thì đi, đứng là tu; ăn, ngủ cũng là tu; làm việc, nghỉ ngơi cũng là tu; trong tu viện hay ngoài xã hội cũng là tu …….

Biết thế, nhưng tâm chúng sanh thường quen dễ dãi với mình mà vô tình để sự buông lung lấn át. Sau buổi uống trà ngoài lều trúc với bạn, chính tôi đã bị sự lười mỏi lấn át lúc nào không hay. Khi nhận ra thì tâm đã vẩn đục bao phiền não. Tôi cố gắng ngồi thiền nhiều thời hơn nhưng càng ngồi, phiền não càng bủa vây trùng điệp !. Biết là đang bị thử thách, một buổi, sau khi ngồi yên trong bóng đêm từ 12giờ đến 3giờ sáng, tôi đứng dậy, tấm gội sạch sẽ rồi niệm Đức Quan Thế Âm. Không biết tôi niệm hồng danh Ngài bao lâu thì bỗng một ý nghĩ lóe sáng. “Nếu định lực yếu kém, hãy dùng hình thức bên ngoài trợ lực; hình thức nào gần nhất với thân, hình thức nào ta có thể nhìn thấy, nhận thấy từng phút, từng giây mới có thể liên tục nhắc nhở ta tinh tấn.”. Ý nghĩ đó vừa thoáng qua, tôi cảm thấy như vừa nhấc khỏi vai một gánh nặng ngàn cân !. Tôi quỳ ngay xuống, Đảnh lễ Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đã soi sáng cho tôi. Hình thức bên ngoài nào gần nhất với thân ta mà dễ thấy, dễ nhận hơn là mái tóc ? Không phút chần chờ, tôi biết rất rõ trong buổi sáng hôm nay tôi phải làm gì. Tôi chuẩn bị những thứ cần thiết. Địa chỉ một tu viện sư nữ, một tấm áo tràng, một bộ dao cạo tóc. Tôi phải tìm đến một ni sư, xin được chứng minh trước Tam Bảo, lòng sám hối và quyết tâm tinh tấn tu học. Tôi sẽ xuống tóc hôm nay, như là một hình thức tự nhắc nhở, chứ không phải xuống tóc xuất gia. Tôi biết mình chưa đủ cơ duyên lớn đó.

Trong lúc ngồi chờ bình minh, bỗng nhiên, câu chuyện trao đổi với bạn đạo ngoài lều trúc về hạnh nguyện “Tam Bộ Nhất Bái” của Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân trở thành đậm nét. Trước đây, đã đôi lần tôi có ý nghĩ xuống tóc mà chưa “dám” làm vì chưa đủ quyết tâm. Khi quyết tâm, mọi sự sẽ hạnh thông.

Trên đường tới gặp ni-sư, tôi mong liên lạc được với bạn để cùng chia xẻ, nhưng bạn vắng nhà. Không sao, hôm nào gặp, tôi sẽ tặng bạn vài sợi tóc và nói với bạn rằng, hạnh phúc này của tôi cũng từ bài học Nhất Tâm khi Hòa Thượng Hư Vân thực hành “Tam Bộ Nhất Bái” đấy. Vậy đừng thất vọng, đừng lo sợ rằng nhìn gương người xưa, lòng ngưỡng phục mà không theo nổi. Nói như vậy là chúng ta đã bị chấp vào hình tướng, vào văn tự, vì gương đó là đuốc sáng, ta phải tùy hoàn cảnh và nhu cầu mà chọn đường đi. Bên cạnh đó, ta còn một niềm tin là khi vấp ngã, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ hiện thân nâng đỡ; không nhất thiết thị hiện dưới thân hành khất, mà có thể là lời an ủi của bạn đồng môn, là sự khuyến khích của giảng sư, là âm thanh tiếng chuông tỉnh thức giữa đạo tràng thanh tịnh…v…v… Hiểu như thế chính là ta đang học từ những bài học ngàn vàng.

Lần tới gặp nhau, tôi cũng sẽ đưa lại bạn chiếc lược đồi mồi rất đẹp bạn mua tặng tôi hôm trước.

Vì nay tôi không còn dùng đến nữa.

Diệu Trân

2 tháng Ba năm 2004


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5452)
Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á châu bất kể lứa tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Châu đều tin rằng nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau.
09/04/2013(Xem: 3260)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứ và hiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
08/04/2013(Xem: 13071)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 18913)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
05/04/2013(Xem: 5695)
Đạo Phật có sứ mệnh đem ánh sáng của Trí Tuệ và Tình Thương đến với muôn loài chúng sanh. Ánh sáng của tinh tú, của mặt trời. mặt trăng giúp cho con người thoát khỏi cảnh tối tăm mờ mẫm ...
04/04/2013(Xem: 11630)
Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăng trầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
01/04/2013(Xem: 7759)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
29/03/2013(Xem: 3218)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được Đinh Tiên Hoàng Đế phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư vào năm Thái Bình thứ 2 (971) và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam. Cho đến các Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh,..v..v….. là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
13/03/2013(Xem: 3366)
Tại sao người ta cứ phải nhắc đến cái nghèo khổ (bần cố nông) như một “giá trị”, “di sản” đáng tội nghiệp, nhằm phản ánh “chân lý”, “đạo đức xã hội” của lãnh tụ, trong khi những lời hô hào phải thoát nghèo, phải chống tham nhũng vẫn tỏ ra ít hiệu lực trước thực tế cuộc sống?
07/03/2013(Xem: 8797)
Không ít ngôi chùa hiện nay đang có chiều hướng “tư nhân hoá” dưới danh nghĩa trùng tu lại, xoá sạch dấu vết gắn bó một thời của người dân địa phương, trở thành sở hữu riêng của vị trụ trì và một số đại gia có tiền bạc và quyền thế. Văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ hội nhập như thế nào với thế giới? Phật giáo Việt Nam sẽ đưa hình ảnh gì của mình ra bên ngoài? Những câu hỏi này được đặt ra từ lâu trước thực tế các quốc gia, dân tộc, tôn giáo trên thế giới đang ngày càng có nhiều hoạt động thúc đẩy quảng bá cho sức mạnh mềm văn hoá.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]