Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý nghĩa các tên gọi của ngôi chùa dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa

17/09/201016:19(Xem: 3897)
Ý nghĩa các tên gọi của ngôi chùa dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa

Ngôi chùa từ lâu đã hiện hữu vàgắn bó thiết thân trong mỗi chúng ta. Khắp nơi nơi trên cả nước, đâu đâucũngcó chùa, lớn có, nhỏ có, kim có, cổ có, tất cả đã trở thành một phần không thểtách rời trong cộng đồng làng xã Việt Nam.

Về tên gọi Chùa hầu như đềuthống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhàlàm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú trên địa bànnhất định. (Phải chăng cũng vì thế mà trong ngôn ngữ của chúng ta xuất hiện nhữngtừ rất “Việt” là… chùa, để chỉ tài sản hay sức lực không của riêng ai cả, muốntiêu pha thế nào không ai cấm, không ai tiếc, như: của chùa, công chùa, tiềnchùa?...). Bên cạnh cái tên Chùa thuần Việt chất phác ấy thì còn nhiều mỹ từgốc Hán khác như Tự, Già lam cũng thông dụng không kém để chỉ ngôi chùa trongtiếng Việt. Dưới đây chúng ta lần lượt tìm hiểu vì sao những từ được dùng đểchỉ kiến trúc nhà có chức năng thờ Phật.

Trước hết là Tự (寺): Ngày nay chữ này được dùng đứng sau làm thành tố chính(trung tâm ngữ) để kết hợp với một từ định danh nào đó (định ngữ) tạo thành mộtcụm danh từ nêu tên gọi một ngôi chùa cụ thể, như Trấn Quốc Tự, Kim Liêntự,Bửu Lâm tự, Vĩnh Nghiêm Tự… Và như vậy, ai cũng hiểu, Tự nghĩa là chùa. Nhưngtrong ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại thì nghĩa của Tự không phải là chùa. VìPhậtgiáo mới tiến nhập Trung Quốc từ đầu Công Nguyên, trong khi chữ Hán thì đã cósớm hơn rất nhiều. Tự vốn là từ để chỉ cơ quan làm việc cụ thể của bộ máy chínhquyền phong kiến. Sách Hán thư chú: Phàm phủ đình sở tại giai vị chi tự (nóichung nơi làm việc của phủ đình đều gọi là Tự). Khang Hy tự điển chú khárõđiều này: Hán dĩ Thái thường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái bộc, Đình úy, Đạihồng lô, Tông chính, Tư nông, Thiếu phủ vi cửu khanh. Hậu nguy dĩ lai danh tuynhưng cửu nhi sở lị chi cục vị chi Tự. Nhân danh Cửu tự (đời Hán lấy Tháithường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái bộc, Đình úy, Đại hồng lô, Tông chính, Tưnông, Thiếu phủ làm Cửu khanh. Nguy trở về sau tuy vẫn để như cũ nhưng các sởcục thì gọi là Tự. Vì vậy mà thành tên Cửu tự [thay cho Cửu Khanh]).

Vậy tại sao từ Tự chỉ một sở cục cụthể được chuyển hẳnsang nghĩa là chùa? Đây là nguyên nhân lịch sử, đánh dấu mốc đầu tiên tronglịch sử Phật giáo Trung Quốc. Hán Minh Đế Lưu Trang (25-75) là vị vua đầu tiênthừa nhận địa vị của phật giáo ở Trung Quốc. Tương truyền nhà vua nằm mộng thấy“người vàng” bay qua sân điện, bèn sai sứ giả 12 người do Lang Trung Thái Âmdẫn đầu sang Tây Trúc cầu tìm đạo phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình 7 (64). Banăm sau (67), sứ giả về với hai tăng nhân người Ấn Độ cùng rất nhiều kinh sáchvà tượng phật được thồ trên lưng ngựa trắng. Lúc các tăng nhân cùng kinh,tượng, về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng nên cho ởtạmtrong Hồng lô tự (một cơ quan trong Cửu khanh). Sau đó nhà vua mới cho xây dựngcái mà chúng ta gọi là chùa để thờ Phật và các tăng nhân tu tập. Kiến trúc xâydựng theo kiểu mẫu dinh thự của quý tộc đương thời. Sau đó chùa được xâydựngngày càng nhiều cũng theo kiểu mẫu nhà ở của địa phương. Chính vì vậy màchùa ởTrung Quốc, và cả ở Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo theo hướng Trung Quốc, cókiểu chùa rất riêng, không theo quy chuẩn mái cong tháp nhọn như nơi Phật giáophát nguyên. Nhân vì kinh và tượng Phật được thồ về trên lưng ngựa trắngnênđặt tên chùa là Bạch Mã. Tự là chỗ đầu tiên tăng nhân tạm trú khi đến TrungQuốc nên được chuyển sang làm thành tố chính để gọi tên cho ngôi chùa: Bạch MãTự, ngôi chùa phật giáo đầu tiên của Trung Quốc.

Già lam 伽藍: cũng là tên gọi của ngôi chùa. Đây không phải là tên cónguồn gốc biến đổi như Tự trên kia. Già lam là tên gọi tắt của Tăng già lam ma(Sangharama). Tăng già là một nhóm tăng nhân đi Hoằng pháp, thường từ bốn ngườitrở lên. Tăng già lam ma 僧伽藍:là nơi ở của các tăng nhân để tu hành, sau chỉ chungkiến trúc ngôi chùa. Như vậy, già lam ở đây nghĩa như Tự. Nhưng theo tàiliệubằng chữ Hán của Tuần phủ Hà Nam-hiệp biện đại học sĩ Mai Viên Đoàn Triển(1854- 1919) trong An Nam phong tục sách thì Già lam chỉ là chùa nhỏ. Nguyênvăn như sau: Tự dĩ Phụng phật, xã dân giai hữu chi (…). Hữu chung lâu, hữu cổlâu, quy chế đa hữu hậu viện vi Tăng ni trụ trì sở. Sóc vọng hiến cung niệmPhật tụng kinh. Diệc hữu Tiểu tự, vô Tăng ni, hữu Thủ tự nhất nhân, hương hoađăng cung lễ, vị chi già lam. (Chùa để thờ Phật, xã dân nào cũng có). Cólầuchuông, có lầu trống, quy chế (thờ tự, cúng tế) nhiều hơn đình, miếu; cótăngni và tháp mộ, có hậu viện làm nơi ở cho trụ trì và Tăng ni. Ngày rằm mùng mộtcúng cúng hoa quả và niệm Phật tụng kinh. Cũng có chùa nhỏ (tiểu tự), không cótăng ni có một người giữ chùa (Thủ tự, ông Tự) để dâng hương, thắp đèn lễ cúng,gọi là Già lam). Theo ý kiến của ông Đoàn Triển ở sách trên thì Già lam chỉ làngôi chùa nhỏ, không có quy mô tổ chức và kiến trúc như chùa. Nhưng theocáctài liệu phật giáo cũng có những ngôi chùa cụ thể được gọi là Già lam, như ngôiGià lam- Cổ tự ở Phụng Hiệp (Hậu Giang) thì quy mô tổ chức cũng như quầnthểkiến trúc không nhỏ chút nào, nếu không muốn nói là có phần diễm lệ.

Thế nào gọi là Chùa? Vì sao nó chỉ kiến trúc ngôi nhà thờPhật? Điều chắc hẳn ai cũng thừa nhận chùa là tên gọi thuần của người Việt. Đểtìm hiểu nghĩa của chữ Chùa chúng ta cần tìm hiểu chức năng của ngôi chùa. Chùalà nơi thờ Phật, chốn linh thiêng, thanh tịnh, là nơi mỗi tháng hai lần các Phậttử dâng hương hoa trà quả để lễ Phật. Lễ vật cúng Chùa thường là những hằng sảnđịa phương, được đem lên tế lễ rồi chẩn phát, cứu tế luôn cho những người nghèokhó. Như vậy ý nghĩa nhân văn của ngôi chùa truyền thống rất lớn: là nơiđểngười giàu san sẻ, người khó tựa nương. Đây cũng là một trong những tôn chỉquan trọng mà nhà chùa hiện nay đang thực hiện. Truy về nguồn gốc chữ Chùakhông đâu hơn là dựa vào mã chữ Nôm. Trong chữ Nôm, Chùa được ghi bằng Trù. Ngữâm lịch sử đã chứng minh: /ch/ là âm trước của /tr/ khi người Việt đọc chữ Hán.Chùa là âm tiền Hán Việt của Trù, nó nằm trong hệ thống ch > tr, như chén> trản, chém > trảm, chọn > trạch, chèo > trạo, chầy > trì, chay> trai, chứa > trữ... Trù có nghĩa là bếp, tiếng Hán hiện đại, trùphòngcó nghĩa là nhà bếp, nơi ấm áp, yên bình trong mỗi gia đình. Suy rộng raxãhội, nơi ấm áp, yên bình nhất chính là ngôi chùa. Chùa là nơi người ta được sansẻ, được thỏa nguyện về cả vật chất lẫn tinh thần. Ý nghĩa từ ngữ thật cao đẹpbiết bao!

Trong tiếng việt ta còn có chữ chùachiền để chỉ chung vềnhững thắng cảnh Phật giáo. Vậy Chiền là gì? Nó là từ có yếu tố độc lập hay làyếu tố láy của từ chùa? Thực ra nó xuất phát từ âm Triền: chỗ ở của người dânnói chung. Cũng như chùa, Chiền là âm tiếng Hán Việt của Triền Hán Việt.Nhưvậy đây là một từ ghép đẳng lập của người Việt để chỉ thắng cảnh Phật giáo nóichung. Trong đó, Chùa là yếu tố trung tâm tương đương với nó chính là Tự. Còntiếng Hán tương đương với chùa chiền không phải là Tự mà là Sát. Sát là âm đượcphiên âm từ tiếng Phạn, là chùa nói chung, từ Hán Việt có các từ như: Cổsát:chùa cổ, Bảo sát danh sơn: thắng cảnh núi non có chùa…

Qua đây có thể thấy cha ông chúng ta đã biết tiếng Việthóa cao độ các thuật ngữ Phật giáo để làm giàu cho tiếng Việt. Tuy là vay mượnnhưng dấu vết hầu như mất hẳn vì nó thấm nhuần tư duy nhân văn của ngườiViệt.

Bên cạnh một số tên gọi đã ăn sâu vào ngôn ngữ Việt khichỉ về ngôi chùa như trên, thì cũng còn nhiều từ khác dùng phổ biến ở TrungQuốc mà khi nhắc tới ta đều biết nó chỉ ngôi chùa, như: Phật sát, Phật điện,Phật đường, Phật khám, Phật tự, Tăng phòng, Tăng viện, Tăng xá, Thiềngià, Thiền trai, Thiền xá, Tự môn, Tự quán, Tự viện…Đó là do quá trình tiếp xúclâu dài,thường xuyên với tiếng Hán. Tất cả các từ trên đều có thể dịch là Chùa.Trong các từ trên, yếu tố đầu: Phật, Tăng, Thiền là thuật ngữ Phật giáo;Tự làchùa đã nói ở trên. Yếu tố sau là những kiến trúc nhà khác nhau trong tiếngHán. Nó góp phần định danh tường minh hơn cho ngôi chùa cụ thể.

Tổng quan lại có thể thấy nghĩa của các từ chùa chỉ vềngôi chùa luôn gắn bó mật thiết với ngôi nhà của chúng ta. Chính vì vậy mà tưtên gọi đã toát lên vẻ ấm áp, thân thương và gần gũi, mang đậm tư duy Phật giáoÁ Đông

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2013(Xem: 36079)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
26/05/2013(Xem: 6015)
ự gia hộ ở đây, theo người viết, mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, khi ta tu tập theo lời Phật dạy có an lạc, thì sự an lạc này có thể nói là sự gia hộ hay sự cứu độ của Đức Phật. Thứ hai, khi ta nhận được niềm tin và cảm xúc thánh thiện từ hành động và nhân cách cao thượng của Đức Phật rồi hành động tốt đẹp trong cuộc đời, thì khi đó ta có thể nói rằng Đức Phật đã gia hộ cho ta.
10/04/2013(Xem: 5542)
Giáo dục học là khoa học về việc giáo dục con người, khoc học về sự huấn luyện đạo đức, huấn luyện trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Giáo dục là khoa học của các khoa học, đào tạo nên tất cả ngành nghề trong xã hội. Từ gốc độ xã hội học, giáo dục là quá trình hành thành con người dưới tác động của môi trường xã hội và thực tại xung quanh con người.
09/04/2013(Xem: 10528)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt. Trời đất như đã thay loài người nói lên ý nghĩa của sự sống, . . .
09/04/2013(Xem: 6882)
Ai trong chúng ta khi nghe nói đến những văn hóa cũ của thế giới cũng đều muốn tìm hiểu để biết. Vì vậy thế giới ngày nay vẫn còn rất nhiều điều mà con người trong giới hạn có thể, muốn có được một bản đồ thu gọn của năm Châu và nếu được nằm hẳn trong đầu óc của con người, sau khi đã thăm viếng những xứ nầy. Dĩ nhiên ngày nay cũng không cần phải đi đến những nơi như thế mới rõ biết hết, mà chỉ cần ngồi nhà, mở máy Computer lên, vào Internet, rồi bấm nút nầy, tắt nút kia ta cũng sẽ có đầy đủ những điều như ý muốn.
09/04/2013(Xem: 5858)
Ðối với người xuất gia, chữ “lễ hội” vắng bóng trong sinh hoạt. Những nơi chốn vui chơi hội hè ca nhạc, đám tiệc linh đình v.v... không thể đặt chân đến. Ðôi lúc cảm thấy bị bỏ rơi, cảm thấy mình ở ngoài lề xã hội. Pháp Cú kể chuyện một hoàng tử dòng Bạt Kỳ, từ bỏ vương vị xuất gia, sống ẩn dật trong khu rừng gần thành Tỳ Xá Ly. Vào ngày hội trăng tròn tháng Kahika, dân cư nô nức tham dự dạ hội, đèn hoa nhạc vũ vang vọng đến chỗ thầy tu tập.
09/04/2013(Xem: 4898)
Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa có đề nghị tôi phát biểu đôi lời cảm tưởng về Ðại hội Văn hóa Phật giáo hôm nay. Xin thành thật cảm ơn mỹ ý của Thượng tọa.
09/04/2013(Xem: 15043)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực Lạc, Ánh Sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc.
09/04/2013(Xem: 4113)
Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, Đàn tràng Chẩn tế là pháp thức để siêu độ vong linh của những người đã chết mà vì oan nghiệp chưa siêu thoát hay chưa tái sinh được.
09/04/2013(Xem: 6037)
Sự phán xét công bằng và hợp lý về một sự việc đã xảy ra, một hành động đã làm là công lý hay bất công, thông suốt hay vướng mắc, oan hay không oan thường không đơn giản, rõ ràng và cụ thể như trắng với đen, sáng với tối. Do đó, sự phân định và quyết đoán rạch ròi những hành động hay sự cố xảy ra, đã vi phạm đến mạng sống, tài sản và tinh thần... là oan hay không oan thường bị vướng mắc do vị thế, quan điểm, văn hóa và cả một chuỗi hệ lụy theo sau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567