Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHẦN I: DẪN NHẬP

03/05/201317:44(Xem: 7294)
PHẦN I: DẪN NHẬP


Vài nét về Tâm lý học phổ thông

và Tâm lý học Phật giáo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

NS Thích Nữ Hương Nhũ

---o0o---

PHẦN MỘT

DẪN NHẬP

Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang diễn ra ở quy mô toàn thế giới với mộc tốc độ chưa từng thất. Cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi về căn bản tính chất và nội dung lao động của con người. Con người phải đứng trước các yêu cầu về chức năng trí tuệ, các phẩm chất ý chí, tình cảm, các quá trình tâm lý và tính sáng tạo của tư duy. Thêm vào đó là một cuộc sống quá sung mãn về vật chất nhưng vẫn không có được niềm an lạc, hạnh phúc vĩnh hằng (mà họ cứ ngỡ rằng vật chất sẽ đem lại) Niềm hạnh phúc trên thế gian mong manh như làn khói quyện, như áng mây trôi. Bên cạnh đó, sự sợ hãi, lo lắng, bệnh tâm thần do bất toại nguyện khôn ngừng phát sinh do ảnh hưởng các điều kiện trần thế, bắt nguồn từ tham dục và luyến ái. Cuộc sống bất an do sợ hãi thất vọng đem lại các chứng của bệnh tâm thần. Một nhà tâm lý học đã khẳng định:

Chúngta tự hào là đã ngự trị được thiên nhiên, nhưng chúng ta vẫn là nạn nhân của thiên nhiên bởi vì chúng ta chưa học được cách chế ngự bản thân của chúng ta. Dần dần nhưng chắc chăn, chúng ta tiến đến tai hoạ"[1]

Như vậy các cứng tâm thần cần phải được chế ngự và trị liệu. Sự chọn lựa tinh thần tiêu cực hay tích cực hoàn toàn do chính chúng ta. Mỗi con người đều có khả năng kiểm soát tinh thần mình. Trong cuộc sống hiện đ5i này, con người nếu không biết điều hợp tâm lý mình cho thích đáng chắc chắn sẽ bị rối loạn khủng hoảng, dễ dàng đưa đến ý nghĩ và hành động tiêu cực:

“Khónắm giữ, khinh động

Theo các dục quay cuồng

Lành thay điều phục tâm

Tâm điều an lạc đến” [2]

Người trí phải biết điều hoà tâm, điều phục tâm. Phải biết rõ sự sinh khởi, vị ngọt sự nguy hiểm và sự xuất ly của từng trạng thái cảm thọ của tâm thức. Phương pháp căn bản của đạo Phật là quán xét nội tâm, nhìn thẳng vào nội tâm. Cái lối quay nhìn vào trong, lấy lòng tự xét lòng này trường phái Hành vi luận (Beheviourism) phê phán rằng nào có khác chi “đứng sau cửa sổ mà nhìn chính mình đi qua” Chỉ trích phương pháp quán nội tâm không có khả năng tách biệt chủ thể đi tìm hiểu với sự vật được quan sát. Quả là hành vi luận “đã nêu lên một vấn đề: truyền đạt cho người khác những sự kiện nội tâm -vốn là cái rất riêng tư thầm kín của mỗi cá nhân. Có thể được hay chăng? Đối với một nền tâm lý học có tham vọng khách quan như tâm lý học Tây phương thì vấn đề cáng trở nên nan giải. Nhưng đạo Phật đã không đặt trọng tâm lý học của mình nơi điểm đó. Rất thực tế, chỉ nhằm cho chúng ta có thể tự biết lấy mình để làm chủ được trạng thái tâm thức của mình và có thể thoát khỏi khổ đau. Nếu có những phương tiện khác dễ dàng hơn, hoặc hiệu nghiệm hơn để trừ diệt khổ, thì không ai sẽ cần bàn đến triềt học. Murti-triết gia người Ấn đã nói:

Sựtin chắc rằng những phương tiện của thế gian không phải là những phương thuốc chữa trị mà chỉ để làm siết chặt thêm nanh vuốt của sinh tử khổ đau nơi chúng ta, rằng chỉ có tuệ giác mới có thể diệt được cội gốc của khổ, và đó chính là khởi điểm của kỷ luật tâm linh” [3]

Tâm lý học Phật giáo khẳng định con người là một tiến trình DANH – SẮC luôn luôn biến chuyển mà yếu tố quan trọng nhất nằm trong tiến trình TÂM. Kiểm soát tâm là trung tâm điềm, là nồng cốt của giáo pháp về những lời d5y của Đức Phật. Hạnh phúc có được phải do những yếu tố tinh thần bên trong tâm thức của ta. Khi tâm nhơ uế thì không thể thành tựu điều chi đáng giá. Vì lẽ ấy, Đức Phật rất chú trọng đến trạng thái trong sạch của tâm. Xem đó là điều kiện thiết yếu để tạo hạnh phúc thật sự và đưa đến giải thoát mọi khổ đau. Tất cả những giáo lý chánh yếu trong Phật giáo như nghiệp báo, nhân quả và tái sanh, pháp hành Thiền và những thành quả tinh thần được nghiên cứu, nghiền ngẫm khảo sát như những sinh hoạt của tâm và như vậy Phật giáo được xem là một môn học về tâm lý thiết thực và trí tuệ nhất. Trong khi tâm lý học phổ thông định nghĩa cái tâm bằng những danh từ TỊNH qua những công trình nghiên cứu và trắc đạt, thì tâm lý học Phật giáo bằng trí tuệ minh sát đã định nghĩa đời sống tâm linh bằng những danh từ ĐỘNG, các vấn đề tâm thức được đem ra giải thích cặn kẽ hoàn toàn. Những sinh hoạt của tâm được đề cập trong Phật giáo đầy đủ hơn bất luận tôn giáo nào. Cho nên tâm lý học cùng sinh hoạt chung với Phật giáo nhiều hơn bất cứ tôn giáo nào khác.

Trong kinh điển Phật giáo, hơn mười lăm thế kỷ qua đã có ít nhất ba tạng luận về các vấn đề tâm lý được hình thành như là; Thắng pháp luận của Thượng toạ bộ, A TỲ Đạt Ma ca6u Xá Luận, của Nhứt thiết hữu bộ, Duy thức luận của Đại thừa. Tất cả đều phân tích tâm lý và chia tâm con người thành các nhóm thiện tâm, bất thiện tâm và phi thiện, phi bất thiện tâm. Tất cả đều nối kết thiền định làm phương tiện để chứng ngộ cái tâm con người và để giải thoát khổ đau. Tuy nhiên, qua sự học tập kinh tạng Nikàya, chúng ta tin chắc rằng phần tâm lý cũng đóng một vai trò quan trọng trong tạng kinh (Sutta Pitaka). Vấn đề tâm lý được giới thiệu qua nhiều hình thức khác nhau: sáu xứ, mười hai xứ, mười tám giới, năm thư uẩn và duyên khởi. Ngoài ra những gì Đức Phật cần nói về bản chất của tâm, phương pháp thanh lọc tâm và làm chủ tâm đã được truyền dạy trong những bài giảng của tạng Kinh như bài Kinh Tứ niệm xứ (satipatthana suttam), Đại phương quảng (Mahavedala suttam), An trú tầm (vittakkhasanthana suttam)...

Như vậy, Phật giáo đã thiết lập được một hệ thống tâm lý hoàn mãn với đầy đủ sự phân tích rõ ràng về các vấn đề tâm thức, nay chúng ta dựa vào quả để suy cứu về nhân. Nhưng với tâm lý học phổ thông, tiến trình nghiên cứu và trắc đạt vẫn phải thực hiện theo đà phát triển của khoa học. Còn khoa học là còn các vấn đề tiếp tục đạt ra mà các nhà nghiên cứu phải giải quyết và hầu như chẳng bao giờ đi đến kết quả cuối cùng.

Hiện nay, tâm lý học phổ thông vẫn là một trong những khoa học quan trọng nhất về con người và hiện đang có mặt trong mọi ngành học của xã hội. Tâm lý học nghiên cứu tất cả hiện tượng tâm lý con người, tâm lý cá nhân và xã hội nhằm làm rõ những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự hình thành đời sống tâm lý con người nhằm mục đích tham gia vào việc giải quyết các vấn đề thực tiển mà xã hội đặt ra (kinh tế, sản xuất, giáo dục, sức khoẻ, hôn nhân...). Nhưng do xuất phát từ nguyên hữu ngã, nên mặc dù các lý thuyết của tâm lý học vốn thực tiển và hữu ích cũng có giá trị tương đối trong việc giải quyết các vấn đề tâm lý và xã hội con người. Hơn nữa tâm lý học phổ thông với các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: quan sát, thực nghiệm, trắc nghiệm tâm lý, đàm thoại, dùng bảng câu hỏi...dù chính xác cách mấy vẫn bị giới hạn vì kết quả đưa lại từ các giác quan vốn dĩ sai lầm và được đúc kết bằng tư duy hữu ngã vốn phi thực.

Đạo Phật thiết lập được một hệ thống tâm lý hoàn hảo vì thấy được vạn pháp như thật nhờ tuệ quán thông qua thiền định, bên cạnh các phương pháp đo lường trắc đạt. Đường lối này nhằm tiến đến những chân lý của đời sống không giống với đường lối của chủ nghĩa thực nghiệm. Tuệ minh sát phi thường của Đức Phật thấy sâu vào bên trong những sinh hoạt của tâm điều này khiến Ngài được nhìn thấy như một nhà tâm lý và một nhà khoa học siêu tuyệt.

Chương trình tâm lý học đại cương và các thứ phân môn khác của tâm lý học đang được giảng dạy trong các trường Đại học sẽ được đề cập đến trong luận văn này bằng danh từ tâm lý học phổ thông. Phật giáo cũng có một hệ thống những khái niệm, những thuật ngữ tâm lý học riêng của mình phù hợp với những quan niệm, quan điểm của Phật giáo về nhân sinh không ngoài mục đích diệt Khổ. Người ta có thể tự hỏi tâm lý học phổ thông (TLH của đời) và tâm lý học Phật giáo (TLH của đạo) có gì giống nhau và có gì khác nhau? Chỉ có biết tâm lý học phổ thông hay chỉ biết tâm lý học Phật giáo là đủ hay cần phải tìm hiểu cả hai?

Luận văn này với cái tên đề tài: “Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo” chỉ nhằm một mục đích khiêm tốn: phân tích sự giống nhau và khác nhau qua một số khái niệm và thuật ngữ trong hai bộ môn tâm lý học nói trên để đi đến kết luận việc học tâm lý học Phật giáo nên tiến hành đồng thời với việc nghiên cứu tâm lý học phổ thông. Đó là cơ sở để mọi người có khái niệm rõ ràng hơn khi người tu sĩ Phật giáo đề cập đến các vấn đề tâm thức.

Tâm lý học phổ thông cũng có rất nhiều loại, tuỳ theo từng trường phái, từng thời đại, tuỳ theo thứ triết học làm nền tảng cho từng trường phái ấy. Ở Việt Nam tâm lý học đang được giảng dạy trong các trường Đại học theo quan điểm triết học Mac-LeNin. Tâm lý học Phật giáo cũng có một cơ sở lý thuyết vững vàng. Hơn nữa cơ sở lý thuyết ấy đứng trên một quan niệm tâm lý học ĐỘNG và PHÂN TÍCH, giúp con người vượt lên khỏi tầng lớp nhận biết thông thường đến mức thực nghiệm chính đời sống mà tất cả đều có thể được con người thể nghiệm ngay trong thực tại. Vấn đề này sẽ được sáng tỏ hơn khi đi vào phần khảo sát kế tiếp của luận văn.



[1]C.G. Jung. Essai d’exploration de l’inconscient. Denbel. P176

[2]Kinh Pháp Cú: câu 36

[3]TR.V.MURTI. The central philosophy of Buddhism P. 69

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Vi tính: Đồng Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 17497)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực Lạc, Ánh Sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc.
09/04/2013(Xem: 4344)
Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, Đàn tràng Chẩn tế là pháp thức để siêu độ vong linh của những người đã chết mà vì oan nghiệp chưa siêu thoát hay chưa tái sinh được.
09/04/2013(Xem: 6632)
Sự phán xét công bằng và hợp lý về một sự việc đã xảy ra, một hành động đã làm là công lý hay bất công, thông suốt hay vướng mắc, oan hay không oan thường không đơn giản, rõ ràng và cụ thể như trắng với đen, sáng với tối. Do đó, sự phân định và quyết đoán rạch ròi những hành động hay sự cố xảy ra, đã vi phạm đến mạng sống, tài sản và tinh thần... là oan hay không oan thường bị vướng mắc do vị thế, quan điểm, văn hóa và cả một chuỗi hệ lụy theo sau.
09/04/2013(Xem: 4184)
Ai đến chùa cũng vào lạy Phật, trừ người hảo tâm đưa giùm người khác đến cửa chùa, rồi đi. Không người nào lạy Phật mà không lâm râm khấn vái. Tôi đoan chắc những lời khấn vái đều là những điều thiện, lành, không cầu phước cầu lộc cho mình thì cầu cho chồng cho con, cho họ hàng thân thuộc, bằng hữu xa gần; người có tâm lượng rộng rãi hơn thì cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình ……
09/04/2013(Xem: 3767)
Mảnh trăng non quyến luyến ngọn tre, lung linh giải lụa ngà trên những vòm lá nhọn; sương sớm như tấm chăn đơn mỏng còn phủ hờ vạn vật mà cánh cổng gỗ bên hông chùa Vạn Hạnh đã hé mở. Một bóng người nhỏ nhắn, trang phục gọn gàng lách ra. Đó là người khách lạ phương xa vào chùa xin nghỉ trọ đêm qua. Người ấy đi về cuối sân chùa.
09/04/2013(Xem: 3925)
Chúng tôi thặt thú vị khi nhận được tin lần đầu tiên Phật giáo có một Hội thi lớn lao như thế, được tổ chức sau bao nhiêm năm tự định hình và phát triển trong gian khó nhằm hướng đến xây dựng nền nghệ thuật Phật giáo tương lai. Từ những ý nghĩa đó, đã thôi thúc chúng tôi bằng mọi cách để có được những thông tin liên quan hầu củng cố thêm cho sự rạo rực đó. Ðôi lúc phải vượt qua cố gắng cá nhân, kể cả dùng đến những thủ pháp mang tính chất nghiệp vụ để đạt đến kết quả mong muốn.
09/04/2013(Xem: 4292)
Đạo của trời đất thì không hai, nhưng Đạo của thế gian thì có thể nói là quá nhiều! Chính vì Đạo do con người sáng lập ra thì quá nhiều cho nên chúng ta vẫn thường nghe một lời kêu gọi của ai đó về một sự "Hòa đồng tôn giáo" hay "hòa hợp tôn giáo". Theo thiển nghĩ đó chẳng qua là hình thức của một sự kêu gọi đoàn kết tôn giáo mà thôi, chớ hòa đồng không có nghĩa là người theo Đạo Phật lại thờ Chúa và người theo Đạo Thiên Chúa lại mang thêm hình ảnh Ông Phật trong lòng!?
09/04/2013(Xem: 3386)
Hôm nay chúng tôi xin được trình bày về đề tài HỘI NHẬP. Trong phạm vi hạn hẹp của thời gian chúng tôi xin trình bày đơn giản cho phù hợp thế nào là HỘI NHẬP .
09/04/2013(Xem: 4814)
Hàng năm, khi người Việt khắp nơi với bao nỗi niềm và tâm trạng chào đón mùa Vu Lan Báo Hiếu, thì cũng là lúc trên khắp đất nước Ấn Độ người ta hân hoan kỷ niệm ngày Raksha Bandhan. Lễ Raksha Bandhan còn gọi là lễ Rakhi hay ngày Shravan Purnima.
09/04/2013(Xem: 7558)
Vào năm 2005, được sự tin tưởng và đề nghị của Hội Đồng Điều Hành Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế, thể theo lời yêu cầu, chúng tôi đã đảm nhiệm giảng dạy bộ môn Văn Học Saṅskrit & Hán Tạng Phật Giáo. Nhờ thiện duyên ấy, giáo trình đã được biên soạn và hoàn tất cuối Học kỳ II của năm thứ 2, Khoá III tại Học Viện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]