Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền quy

01/04/201314:04(Xem: 6441)
Thiền quy

Phat_thanh_dao

Thiền Quy (Thiền Viện Mahasi)

Đại Đức Thiền Sư Bhaddanta U Arseikkhana thuyết giảng
Tỳ kheo Chánh Kiến dịch

---o0o---

“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”

Hành giả cần phải:

1. Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi.

2. Độc cư, giữ yên tịnh. Mọi giao tiếp không được khuyến khích tại đây.

3. Kềm chế việc hở môi nói chuyện.

4. Hạn chế tối thiểu việc đọc và viết.

5. Cư sĩ phải giữ Bát Quan Trai giới. Cấm hút thuốc. Nhà sư và tu nữ phải trì giữ cẩn mật giói luật hàng xuất gia.

6. Cẩn trọng theo sát hướng dẫn của Thiền Sư và không hành theo bất cứ lối thiền nào khác tại đây.

7. Không được có bất cứ hành vi nào không liên quan đến việc hành thiền liên tục (như nghe radio, cassette, xoa bóp, chụp hình, giữ sách vở - dù là kinh, châm cứu, tiếp khách, nấu ăn, học tiếng Miến Điện, Anh văn hay Pàli ...)

8. Thu thúc các Căn. Sống như Mù, Điếc, Câm, Ngu, Bệnh, và như người chết rồi.

9. Cử động thật chậm.

10. Hạn chế ngủ từ 4-6 giờ trên 24 giờ mổi ngày.

11. Hành giả phải hành thiền bằng:

- Lòng tôn kính và thật tâm

- Sáng suốt, trung thực và chân chính.

- Tinh cần và dũng mãnh.

- Thông suốt mọi việc.

- Kiên định.

- Trì chí, liên tục từng giây phút niệm, từ khi kinh hành sáng đến lúc an nghỉ buổi tối.

12. Không thể gián đoạn niệm để suy nghĩ, liên tưởng, suy tính, phân tích hay giải thích trong khi hành niệm liên tục.

13. Thông thường, việc hành thiền dành cho người bình thường và tâm trí quân bình. Nếu người mà tâm trí không sắc bén để hành thiền liên tục, nhất là để theo sát giáo huấn, thì không thể gọi là hành giả. -- (Lời dạy của các Thiền Sư ).

* Tóm Lược Hướng Dẫn Cách Trình Pháp

1.Mỗi hiện pháp gặp phải trong một lần ngồi thiền cần được mô tả trong những thuật ngữ sau:

a. Sự phát sanh

b. Sự ghi nhận

c. Sự quan sát

Trình bày những hiện pháp (Đề Mục) gặp phải theo một cách trình tự từ hiện pháp đầu tiên, như chuyển động lên - xuống, phồng - xọp của bụng.

Chẳng hạn:

- Sự phồng lên của bụng đã phát sanh tôi ghi nhận là Phồng rồi quan sát sự giãn nở, sự nén hơi, sự căng cứng ".

- "Sự xọp xuống của bụng đã phát sanh, tôi ghi nhận là Xọp rồi quan sát sự xẹp xuống, sự thư giãn tinh thần"

2.Trình bày sự biết rõ các hiện pháp đồng phát sanh ra sao và ta quan sát chúng liên tục như thế nào?

Chẳng hạn: "Sự biết rõ chỉ đến sau khi sự Phồng đã sanh diệt và tôi chỉ có thể quan sát một hay hai những sự phồng và những sự xọp, trước khi tâm ý trôi mất" hay "sự biết hiện pháp phát sanh ngay ở sát na phồng và sự kéo dài của nó, và tôi có thể quan sát phồng - xọp từ 20 đến 30 lần trước khi tâm ý phóng đi".

Điều quan trọng nhất là trình hiện pháp đầu tiên trong sự rõ ràng, đơn giản, ngôn từ chuẩn xác trong mọi chi tiết chính xác mà ta đã quan sát. Chỉ sau khi đó bạn mới có thể trình bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và biết rõ trong lúc ngồi.

3.Trình bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và quan sát rõ rệt khi ngồi thiền .

Chẳng hạn: Những tâm cảm thọ từ thân thể: đau nhức, ngứa ngáy,.... suy nghĩ và ý tưởng, phóng dật, hoạch định, nhớ tưởng, .... những trạng thái tâm: sân hận nóng nảy, ngã mạn tự cao, an lạc, vừa ý, v v...

Xin thuật lại những chi tiết, ý liệu sau trong mỗi hiện pháp được trình bày:

a) Sự phát sanh của một hiện pháp. Ví dụ: "Đau nhức đã phát sanh ở đầu gối,...."

b) Những gì ta đã làm, ta ghi nhận chúng ra sao. Ví dụ: tôi ghi nhận rằng "đau đau"

c) Những gì ta đã quán sát. Ví dụ: tôi quan sát sự đau nhói.

d) Những gì sẩy ra cho hiện pháp Ví dụ: đau nhói đổi thành đau nhức.

e) Những gì ta đã làm kế đó. Ví dụ: tôi ghi nhận chúng khi "nhức, nhức".

f) Những gì ta quan sát. Ví dụ: tôi quan sát nhịp đau nhức dập chậm (nhói lên từng nhịp).

g) Những gì xảy ra . Ví dụ: khi tôi ghi nhận chúng, chúng đã diệt đi.

h) Những gì ta đã làm kế đó. Ví dụ: tôi trở về sự ghi nhận Phồng và Xọp.

i) Tâm phóng dật khởi hiện pháp (Đề Mục). Ví dụ: đầu tiên tôi không ghi nhận chúng. Nhưng khi tôi đã hành, tôi ghi nhận chúng là: phóng dật" và phóng dật đã chấm dứt. Ngay sau đó, tôi trở về sự quan sát Phồng - Xọp.

4.Ta phải trình bày diễn tiến toàn diện của ta trong mỗi hiện pháp (đề mục) kế tiếp.

- Sau khi trình bày về thiền toạ (ngồi), ta có thể trình bày tiếp về thiền hành (đi kinh hành)

- Lại nữa, mô tả trước tiên về những hiện pháp ban đầu: Dở, Bước, Đạp của mỗi chân.

Chẳng hạn: "Khi kinh hành, tôi dở chân, ghi nhận sự dở chân và quan sát X,Y,Z.... Chuyển chân tới trước, tôi ghi nhận bước chân và quan sát A,B,C... Khi đặt chân xuống, tôi ghi nhận sự đặt chân và quan sát L,M,N... Tôi có thể ghi nhận, theo dõi liên tục từ 10 đến 15 bước trước khi tâm ý trôi mất (phóng dật), hay tôi đã bị tác động bởi các cảnh vật và các âm thanh (sắc và thinh).

Những hiện pháp kế tiếp có thể liền được trình bày trong diễn tiến toàn diện của chúng.

a) Khi tâm ý phóng dật, tôi đã nhận biết chúng ngay tức thời.
b) Tôi đã ghi nhận "phóng dật", chúng nhòa đi một cách chậm dần và biến mất, rồi tôi trở lại quan sát, theo dõi sự dở, bước, đạp.

Hình thức này dành cho việc trình pháp (trình bày những kinh nghiệm hành thiền) đã minh chứng là hữu ích vô cùng cho nhiều hành giả. Nó chỉ đường cho tâm an trụ trong đường hướng hành thiền, thông qua việc khai mở toàn bộ những tiến trình nào có thể xảy ra trong thân - tâm chúng ta.

Bất cứ cái gì bạn kinh nghiệm được trong việc hành thiền, có thể được đúc kết trong việc trình pháp của bạn, cho dù đó là trạng thái an trú hỷ lạc của tâm, những giai đoạn tình cảm hay tâm tư gặp khó khăn hay chướng ngại pháp mạnh mẽ. Lợi ích lớn nhất của cách thức trình pháp hành thiền đặc biệt này là, giúp bạn tập trung niệm một cách trực tiếp trên sự tu chứng, còn hơn là đánh mất mình trong tư duy miên man và tản mác về những gì xảy ra.

Sự liên hệ nan giải này trong việc trình pháp cùng sự nhận thức mạnh mẽ, sâu sắc hơn, làm minh bạch và thấu đáo về thiền định.

---o0o---

Cập nhật: 01-07-2005

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/12/2013(Xem: 9828)
Thật là một hân hạnh lớn cho chúng tôi hôm nay được về tham dự Đại hội kỳ V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Thật vậy, từ ngàn dặm xa xôi mà được về thăm quê hương đã là một điều hạnh phúc, lại được phép trình bày một số thao thức của một người con Phật trước những người đồng đạo mà cũng là đồng bào cùng chung một ước mơ, thì thật là một cơ duyên hiếm có.
20/12/2013(Xem: 30068)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 14783)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 12707)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
16/12/2013(Xem: 15848)
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
16/12/2013(Xem: 10323)
Có một lần, đức Phật đi ngang qua bộ lạc của người Kalama. Nghe danh tiếng của Phật, người dân của bộ lạc này tìm đến đảnh lễ và hỏi Phật, Có một số đạo sư khác đi ngang qua đây. Nhưng người nào cũng làm sáng tỏ, và ca tụng quan điểm của chính mình, nhưng lại bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc quan điểm người khác. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: "Trong những vị đạo sư này, ai nói sự thật, ai nói dối?"
16/12/2013(Xem: 12605)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 30551)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
11/12/2013(Xem: 19314)
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “ Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu ta không thân thì đâu có khổ gì ?”
11/12/2013(Xem: 17665)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567