Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia

19/08/202109:59(Xem: 3112)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia


Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia
(His Holiness the Dalai Lama’s conversation with Indonesian Students)


Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia 4

Hình 1: Một thành viên của khán giả ảo đang cúng dường Mandala truyền thống, khi bắt đầu Đức Đạt Lai Lạt Ma đối thoại trực tuyến với hàng nghìn Sinh viên Indonesia, từ nơi cư trú của Ngài, Dharamsala, HP, Ấn Độ, 11/8/2021. Ảnh: Ven Tenzin Jamphel

Sáng ngày 7 tháng 8 năm 2021, bà Dwi Lestari, một nhà văn và nghệ sĩ người Indonesia, đã cung kính đảnh lễ Đức Thánh Đạt Lai Lạt Ma, cùng đối thoại trực tuyến với hơn một nghìn sinh viên Indonesia. Chủ đề của buổi chia sẻ pháp thoại các Câu chuyện "Jataka" (chuyện tiền thân của Đức Phật), được ghi lại trong Bồ tát Bản sinh Man Luận (Jatakamala), hay " Garland of Birth Stories", và được mô tả qua các bức phù điêu khắc đá được trang trí chung quanh Thánh địa Phật giáo Borobodur, Di sản Thế giới. Sự kiện này nhằm khởi động lại sách "Nusantara Dharma", đang diễn ra với sự cộng tác bởi cộng đồng Kadam Chöling Indonesia.

Đức Thánh Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu cảm ơn một diễn viên người Indoneia, đã cúng dường Madala truyền thống, và chúc thính giả của Ngài "Good morning".

"Hôm nay", Ngài tiếp tục, "Tôi mong muốn được tổ chức các buổi chia sẻ pháp thoại với những thanh niên người Indonesia, những người yêu kính đạo Phật. Tôi là một thành viên của Tăng đoàn Phật giáo, và một trong những cam kết của tôi là thúc đẩy sự hòa hợp giữa các tôn giáo.Tất cả các truyền thống tôn giáo khác nhau của chúng ta, cho dù chúng tôi đang nói về Ấn Độ giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo hay Phật giáo đều mang một thông điệp chung về tầm quan trọng của từ bi tâm và lòng bác ái. Mỗi người đều sử dụng các quan điểm triết học khác nhau để củng cố lòng vị tha, luôn quan tâm đến người khác. Một số người nói rằng có một vị thần, những người khác tập trung vào luật nhân quả. Mục đích thực sự của tất cả họ là giúp những người theo dõi họ trở thành những người tốt hơn, nhân ái hơn. 

"Liên quan đến vị Thượng đế sáng tạo, Cơ Đốc giáo miêu tả Ngài như một thực thể của tình yêu vô hạn. Hồi giáo thuyết về Thiên Chúa bác ái và nhân từ. Do Thái giáo đề cập đến Đức Chúa Trời là Đấng Công chính. Mặc khác, Kỳ Na giáo và đạo Phật có khái niệm về một vị Thượng đế sáng tạo, nhưng họ vẫn hướng đến việc đào tạo những con người chân chính từ bi. 

Nơi tôi sống tại Ấn Độ, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt. Và họ đã sống hòa thuận bên nhau trong hơn một nghìn năm. 

Hôm nay, tôi rất hoan hỷ được gặp gỡ các anh chị em đến từ quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới. Chúng ta chấp nhận tôn giáo hay không là vấn đề của sự lựa chọn cá nhân. Chúng ta đều là con người. Chúng ta được hưởng lợi bởi từ bi tâm và sự chăm sóc của người mẹ hiền của chúng ta sinh ra. Thật vậy, nếu không có tình thương như biển trời bao la và lòng nhân ái của người mẹ hiền, chúng ta không thể sống sót. 

Trong thế giới ngày nay, chúng ta phải đối mặt với các vấn đề xung đột, bởi chúng ta thiếu ý thức đúng đắn, về tình anh em và tình chị em. Chúng ta lãng quên những giá trị cơ bản của con người. Chúng ta cố gắng giải quyết các tranh chấp, và sự khác biệt về quan điểm bằng cách sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, tôi tin rằng hầu hết loài người đã chán nản bạo lực và chiến tranh. Do đó, các cộng đồng tôn giáo chúng ta có trách nhiệm thúc đẩy từ bi tâm. Chúng ta phải cùng chung bên nhau tình đời ý đạo trên hành tinh này, vì vậy chúng ta phải làm việc để thế giới này trở thành một thế giới hòa bình hơn"

Thánh tăng Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận sự quan tâm đặc biệt của một số người Indonesia đối với 34 câu chuyện Jataka kể lại quá khứ tiền thân của Đức Phật. Tác giả Aryahura, ban đầu không phải là một Phật tử, mà là một học giả trứ danh của một truyền thống khác. Vào thời điểm đó, các học giả của Đại học Phật giáo Nalanda lo lắng rằng, ông có thể đánh bại họ trong cuộc tranh luận, nên họ đã thỉnh cầu Đức Bồ tát Long Thọ giúp đỡ. Ông đã cử một đệ tử giỏi nhất, Aryadeva, người đã thuyết phục Aryadeva về giá trị lời vàng ngọc của Đức Phật. Sau đó, vào cuối đời, Aryadeva, là một nhà thơ nổi tiếng, đã sáng tác cuốn "những câu chuyện về sự ra đời" bằng tiếng Phạn. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia

Hình 2: Đức Đạt Lai Lạt Ma đối thoại trực tuyến với hàng nghìn Sinh viên Indonesia, từ nơi cư trú của Ngài, Dharamsala, HP, Ấn Độ, 11/8/2021. Ảnh: Ven Tenzin Jamphel

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng, những câu chuyện đọc rất hay, nhưng đôi khi Ngài cảm thấy chúng có phần tô điểm quá mức. Điểm quan trọng cần lưu ý ở câu chuyện mang tính đạo đức nhân văn, trong đó có các đức tính hoàn thiện, độ lượng, đức hạnh và nhẫn nhục, Bồ tát đã nêu gương. Cơ bản của tất cả các câu chuyện là khái niệm Ấn Độ cổ đại về "Từ bi tâm, Karruna" và "Bất bạo động, Ahimsa". Ngài nhấn mạnh những chủ đề này là phổ biến đối với hầu hết các tôn giáo, nhưng cho dù chúng ta có hướng đến một truyền thống tôn giáo hay không, chúng ta đều cần phải có ấm lòng từ bi nếu chúng ta muốn hạnh phúc.  

Khi trả lời các câu hỏi của các khán thính giả, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng, mạng sống của mình vì lợi ích của người khác, như các vị Bồ tát đã làm được ghi chép trong các câu chuyện, là đáng giá nếu thực sự lợi ích mang lại. Ngài nói thêm rằng, cần có trí tuệ và minh mẫn để đánh giá lợi ích đó sẽ là gì. 

Ngày nay đối với những khó khăn nghiêm trọng mà thế giới phải đối mặt, đại dịch Covid-19 và sự nóng lên toàn cầu, chúng ta có thể thực hiện các bước để giảm áp lực của chúng. Nhưng chúng ta không thể từ bỏ hy vọng hoặc từ bỏ hành động. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma kể rằng, Ngài đã từng hành hương Thánh địa Phật giáo Borobudur, Indonesia. Ngài miêu tả các bảo tháp là một ngôi đại già lam cổ tự Phật giáo tuyệt vời, nhưng Ngài tuyên bố điều quan trọng hơn nữa là một ngôi chùa trong tâm của mỗi chúng ta, nơi chúng ta luôn tắm mát trong suối nguồn bi tâm và sưởi ấm dưới ánh quang dương trí tuệ. Nếu chúng ta kết hợp điều đó với trí tuệ bát nhã vốn sẵn nơi mỗi con người, chúng ta có thể tạo ra một thế giới hạnh phúc hơn, không chỉ bằng cách nói những lời cầu nguyện, mà bằng cách tham gia vào hành động thiết thực. 

Ngài được thính chúng hỏi làm thế nào để đối phó với sự tiêu cực, và được khuyên nên tuân thủ các nguyên tắc đạo đức của sự trung thực và từ bi tâm. Ngài đề cập đến những khó khăn, mà Ngài phải đối mặt trong cuộc sống của mình, ở quê nhà Tây Tạng và sau đó là một người tỵ nạn sống lưu vong tại Ấn Độ, nhưng tiết lộ rằng, Ngài đã tiếp tục thực hành theo truyền thống Đại học Phật giáo Nalanda mà Thánh tăng Shantarakshita (Tịch Hộ) đã giới thiệu ở Tây Tạng.

Thánh tăng Shantarakshita (Tịch Hộ), vị Thánh tăng Ấn Độ thuộc Trung Quán tông, người truyền bá Phật pháp sang Tây Tạng thời kỳ đầu. Quan niệm của Ngài là Trung Quán nhưng có tính chất dung hòa với Duy thức. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Ngài là Nhiếp chân thật luận (攝真實論, sa. tattvasaṃgraha).

"Người Tây Tạng chúng tôi là những người dũng cảm, kiên quyết," Ngài tuyên bố, "nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi dùng đến bạo lực. Tinh thần Tây Tạng của chúng tôi kiên định và từ bi, những phẩm chất đã thu hút sự ngưỡng mộ ngay cả một số người Trung Quốc". 

Một sinh viên đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa hai quốc gia Phật giáo Indonesia và Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời rằng, Thánh tăng Dipankara Atisha (Nhiên Đăng Cát Tường Trí) người Đông Ấn (982-1054) đã đi thuyền từ đông Ấn Độ đến Sumatera, một đảo lớn ở miền tây Indonesia để học Bồ đề tâm pháp với Thánh tăng Dharmakīrti (Pháp Xứng), một trong những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại điện quan điểm của Nhân minh học. Tất nhiên, Thánh tăng Dipankara đã đóng góp rất nhiều trong việc truyền Phật giáo sang Tây Tạng. Sư chuyên nghiên cứu các phương pháp phát triển Bồ đề tâm. Là Tổ của dòng Ma kiệt đa và thuyết sư tại đại học Siêu Giới, Ngài được mời qua Tây Tạng và sống ở đó 12 năm cuối đời mình. Ngài là người sáng lập trường phái Kadampa, gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Tây Tạng. Ngày nay, Thánh tăng Dharmakīrti được nhân dân Tây Tạng nhớ đến với tên gọi Lạt Ma Serlingpa. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng, dưới ánh sáng của những chuyến vân du hoằng dương chính pháp Phật đà của Thánh tăng Dipankara Atisha, ngày nay việc trao đổi quan điểm và chia sẻ về kiến thức với nhau trở nên dễ dàng hơn nhiều. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma Đối thoại Trực tuyến với Hàng nghìn Sinh viên Indonesia 2

Hình 3: Một sinh viên, khán thính giả ảo hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma một câu hỏi trong cuộc đối thoại trực tuyến với hàng nghìn Sinh viên Indonesia, từ nơi cư trú của Ngài, Dharamsala, HP, Ấn Độ, 11/8/2021. Ảnh: Ven Tenzin Jamphel

Đức Đạt Lai Lạt Ma từ chối cho biết câu chuyện nào trong số 'Truyện kể về Jakata' mà Ngài cho là truyền cảm hứng. Ngài nhấn mạnh, điểm mấu chốt là thừa nhận tính hợp nhất của con người; để nhận ra rằng tất cả chúng ta đều giống nhau cùng là nhân loại. Từ quan điểm thực tế, tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào nhau, và trên cơ sở đó chúng ta có thể phục vụ lẫn nhau trong tình huynh đệ, cùng chung sống trong đại gia đình trên hành tinh 7 tỷ người. 

"Tôi là người Tây Tạng, sống ở Ấn Độ. Tôi coi mỗi người mà tôi gặp đều giống nhau như một người anh, người chị đối với tôi. Đánh nhau là vô ích và tự chuốc lấy thất bại. Chúng ta phải tìm cách để cùng tồn tại và chung sống trong hòa bình"

Được mời bình luận về cách một cộng đồng thiểu số, có thể tự ứng xử khi đôi mặt với chủ nghĩa cực đoan, Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ rằng, trong quá khứ giữa các dân tộc bị cô lập, có thể cảm thấy thích hợp khi nói về một chân lý và một tôn giáo. Tuy nhiên, ngày nay tình hình đã thay đổi, và tất cả chúng ta đều nhận thức được nhiều truyền thống tôn giáo, cũng như nhiều khía cạnh của sự thật. 

Một trong những phẩm chất của Phật giáo, có một cái nhìn khoa học về tâm trí và cảm xúc của chúng ta, và có thể giải thích những cách để đạt được sự bình yên trong tâm hồn. Truyền thống Đại học Phật giáo Nalanda, bao gồm các phương pháp giảm thiểu cảm xúc tiêu cực, và tăng cường cảm xúc tích cực, nhân rộng sĩ số hạnh phúc. Tâm lý học Phật giáo có thể hữu ích cho bất kỳ ai quan tâm đến việc khám phá nó, mà không cần phải thực hiện bất kỳ cam kết tôn giáo nào. Đây là một trong những cách mà Phật giáo có thể góp phần tạo ra một thế giới hòa bình hơn. 

Trả lời nhận xét rằng, vào thời Đức Phật còn tại thế, có thể dễ dàng đạt được sự chứng ngộ hơn, Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định rằng, Ngài không tin có ai đó trở nên chứng ngộ một cách tự nhiên khi họ lắng nghe pháp âm vi diệu của Đức Phật. Ngài chỉ ra rằng, khi còn là Đông cung Thái tử xuất gia, trải qua sáu năm khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, miệt mài công phu tu tập thiền định trước khi đạt được Phật quả. Ngài đề nghị mọi người lắng nghe những gì Đức Phật đã nói, và tư duy về điều đó để cải thiện sự hiểu biết của họ. Sau đó, họ thiền định về những gì họ hiểu, áp dụng sự tập trung và minh mẫn, điều này cho phép họ thực hiện một sự chuyển hóa nội tâm. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma gợi ý rằng, con đường Trung đạo (Madhyamaka) là một cách mạnh mẽ để giúp giảm bớt sự cực đoan, tà kiến. Hãy nghĩ về cách chúng ta nghĩ về tam nghiệp ý nghĩ, lời nói và hành động, và sau đó tự hỏi bản thân rằng đâu là cái 'Tôi" sở hữu những đặc điểm này. Ngài khẳng định rằng, mỗi ngày đều tự hỏi bản thân rằng cái "Tôi" ở đâu và không thể tìm thấy một bản ngã độc lập, vốn có tồn tại. Điều này có tác dụng mạnh mẽ trong việc giảm bớt sự tức giận và chấp trước. Ngài đã trích dẫn trong cuốn "Nhập Trung đạo: Con đường Bồ tát Tích hợp Đại bi và Trí tuệ" của Ngài Chandrakirti (Nguyệt Xứng), một triết gia Trung Quán vĩ đại của đạo Phật ở thế kỷ thứ bảy.

Nhập Trung đạo: Con đường Bồ tát Tích hợp Đại bi và Trí tuệ", một bản dẫn nhập tổng hình thành hai tiếp cận diệu pháp Như Lai, và thực hành lục độ vạn hạnh. 

Sinh viên Dewi Lestari muốn biết làm sao có được pháp tướng tuyệt hảo như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài trả lời rằng, chúng ta dành nhiều thời gian để bị phân tâm bởi các giác quan, tuy nhiên cũng có thể ý thức quan tâm đến tinh thần của chúng ta, và có được kinh nghiệm về bản chất của tâm trí. Khi chúng ta phát triển được sự yên tĩnh và tập trung, việc áp dụng tâm trí vào việc phân tích đâu là 'Tôi' và đâu là cảm xúc tiêu cực. Khi chúng ta phát triển sức mạnh nội tâm, chúng ta đạt được sự an tâm vững chắc hơn. Và khi chúng ta có được kinh nghiệm sâu sắc hơn về tâm trí và các cấp độ tinh vi hơn, ánh sáng của tâm trí sẽ hiển lộ. Đó là tâm vi tế của Phật tính, cuối cùng sẽ hiển hiện tâm của Đức Phật. 

Được đưa ra một số lời khuyên cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh cơ hội đặc biệt mà thính giả của Ngài có được để chia sẻ ý tưởng về từ bi tâm, đó là điều mà tất cả chúng ta đều cần. Tương tự như vậy, tất cả chúng ta đều cần từ bi tâm, sự bao dung bằng cách khuyến khích sự phát triển của những phẩm chất thanh cao này, chúng ta có thể góp phần tạo ra một xã hội hài hòa, nhân ái hơn. Tiềm năng của từ bi tâm là điều mà tất cả con người đều sẵn có. Đó là cơ sở để tôn trọng lẫn nhau và có thể học hỏi lẫn nhau.

 Bà Dwi Lestari, một nhà văn và nghệ sĩ người Indonesia đã dâng lời kính tri ân Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đã tự động đề nghị các khán thính giả trên màn ảo, cùng tham gia với Ngài trong một phút thiền định về từ bi tâm. Sau đó, Ngài ca ngợi những đức tính của tâm giác ngộ, tâm bồ đề và những lợi ích đáng kinh ngạc của nó. Chúng ta cần ấm lòng từ bi để giúp tha nhân đang trong cơn khốn khó. Chúng ta cần từ bi tâm để thanh lọc những cảm xúc tiêu cực của chúng ta và tích lũy năng lượng tích cực. Tất cả những hành động vô ngã vị tha được miêu tả trong 'Những câu chuyện về Jataka' đều bắt nguồn từ Bồ đề tâm, khát vọng đạt được Phật quả để giúp đỡ người khác. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma trích dẫn những câu trong tác phẩm "Tập Bồ tát Học luận" của Thánh tăng Shantideva (Tịch Thiên), ca ngợi việc thực hành bình đẳng, trao đổi giữa bản thân và những người khác. 

Tác phẩm "Tập Bồ tát Học luận" chuyên chú đến khía cạnh tu tập cụ thể mà mỗi Phật tử có thể thực hành. Tất cả những chủ đề được đưa ra và bình luận đều hướng về mục đích cứu cánh, đó là thành tựu đạo quả vị Bồ tát, đạt giác ngộ vì lợi ích chúng sinh. 

clip video:

https://www.youtube.com/watch?v=kGIgKDWBQPM

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: dalailama.com)

 
facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 6657)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4954)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51728)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9295)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20835)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7783)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12154)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15163)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3969)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567