Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật học trong Đạo đức Kinh doanh

18/08/202110:16(Xem: 3444)
Phật học trong Đạo đức Kinh doanh

Phật học trong Đạo đức Kinh doanh
(Entrepreneurship Dalam Perspektif Buddhis)

Phật học trong Đạo đức Kinh doanh

Là một doanh nhân hay tinh thần kinh doanh, hoặc một nhóm người sáng tạo, và sản xuất hàng hóa và tạo dịch vụ, bằng cách tận dụng các cơ hội lợi nhuận của doanh nghiệp.

Có rất nhiều ví dụ về tinh thần kinh doanh, cụ thể như ẩm thực, cửa hàng, tiệm cắt tóc, mở lớp dạy kèm, và nhiều ví dục khác về tinh thần kinh doanh mà chúng ta có thể làm. Theo quan điểm của Phật giáo, chúng ta không bị cấm kinh doanh miễn là nó không gây tổn hại đến mọi người, mọi loài. 

Vì vậy, Đức Phật khuyên chúng ta không nên tham gia vào việc kinh doanh mua bán mà cư sĩ Phật tử không nên can dự, mua bán vũ khí, mua bán người, mua bán ma túy, tạo nghiệp sát sinh từ nghề giết mổ động vật, mua bán chất độc. . . Vì vậy, hãy sống với Chánh mạng (sammavayama) và thực hành Bát Chánh đạo:

1. Chánh kiến: thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan.

2. Chánh tư duy: suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.

3. Chánh ngữ: lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.

4. Chánh nghiệp: hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.

5. Chánh mạng: Sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình.
 

6. Chánh tinh tấn: Chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.

7. Chánh niệm: Ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.

8. Chánh định: Tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.

Vâng, là doanh nhân, tất nhiên chúng ta phải có vốn để khởi nghiệp. Chúng ta có thể sử dụng nguồn vốn này từ đâu? Chúng ta có thể có vốn bằng cách vay vốn tại hợp tác xã, ngân hàng hoặc có thể là nhờ nhà đầu tư, và nhiều cách khác để có vốn mà khởi nghiệp. 

Nhưng chúng ta không chỉ nhận được vốn từ vật chất, chúng ta cũng cần nguồn vốn khởi nghiệp "Kinh tế học Phật giáo" để đạt được thành công. 

Đầu tiên trong kinh doanh, chúng ta có các yếu tố để đạt được thành công như trong kinh Anguttara Nikaya IV 285:

"• Uttanasampada, siêng năng và nhiệt tình trong công việc, để có được của cải thì chúng ta phải siêng năng, tất nhiên là cả sự nhiệt tình để những gì chúng ta khao khát đạt được. 

• Arakkhasampada, hết sức cẩn trọng trong việc bảo vệ của cải có được, không nên sử dụng của cải đó vào những việc không phù hợp, để thành công mà chúng ta có được, không bị mất đi bởi sự bất cẩn trong việc sử dụng nó.  

• Kalyanamitta, thường kết giao với những bạn hữu có đạo đức, phẩm hạnh tốt để đạt được thành công, trong đó những người bạn tốt có thể hợp tác đến những điều tích cực, những người luôn hỗ trợ, giúp đỡ và khuyến khích chúng ta đạt được thành công. 

• Sammajivakata, sống bằng lợi nhuận chân chính, không xa hoa và không keo kiệt. Đúng như câu nói, chiếc cọc lớn trên cây sào nhắc nhở chúng ta phải sống trong sự giàu có chân chính, không chi tiêu vượt quá mức nguồn thu, như vậy sẽ gây ra nợ nần khắp nơi thêm sầu khổ".

Nếu chúng ta có thể quản lý tài chính, bằng cách cân bằng giữa chi phí và thu nhập, thì công việc kinh doanh của chúng ta luôn suôn sẻ, và chúng ta có hạnh phúc bởi không mắc nợ. Không xa hoa có nghĩa là không sử dụng nguồn thu nhập cho việc xa hoa, hoặc sử dụng nguồn thu nhập đó cho những việc không quan trọng, chẳng hạn như tiêu phí cho những giải trí tiêu cực trong cuộc sống. 

Nhưng cuối cùng không kém phần quan trọng, nghĩa là không keo kiệt, dù chúng ta khởi nghiệp kinh doanh để kiếm lời, nhưng không có nghĩa là phải bủn xỉn, chúng ta vẫn hào phóng sẵn sàng giúp những người khó khăn bằng cách quyên góp vật chất hoặc sức lực.

Ngoài ra, để chuẩn bị cho việc kinh doanh, chúng ta xem tính khả thi của việc kinh doanh với mô hình "Ehipassiko" bằng cách xác định những ý tưởng khi chúng ta bắt đầu kinh doanh, ví dụ như trong đại dịch Covid-19, việc thường xuyên rửa tay với xà phòng/xà bông/dung dịch rửa tay nhanh và nước sạch hoặc dung dịch rửa tay có cồn, vệ sinh hô hấp qua mũi, miệng là biện pháp phòng ngừa đơn giản nhưng hiệu quả giúp hạn chế khả năng lây lan dịch bệnh. 

"Ehipassiko", một tổ chức có tầm nhìn chiến lược là xây dựng tính cá nhân, cộng đồng và môi trường thông qua lối sống học tập, hành động, tu tập thiền định dựa trên Phật pháp Nhân văn. 

Quỹ Ehipassiko được Handaka Vijjānanda thành lập vào năm 2002 tại Myanmar, và được phê duyệt bởi Chứng thư thành lập Quỹ số 01/01-09-2008 tại Indonesia. 

Tên "Ehipassiko" xuất phát từ tiếng Pali, có nghĩa là "hãy đến mà xem, datang dan lihat", một trong những đặc điểm độc đáo của Phật pháp mời gọi xác minh. 

Hợp tác

Trong nước: tất cả các Tăng đoàn & hội chúng Phật giáo, các Trung tâm Tipitaka Indonesia, Tzu Chi, SIDDHI, BFI, BEC, Karaniya, Serlingpa Dharmakirti, Joky, Janitra, RAIS, Elex Media, Publisher Swadaya, TIKI, Pos, Stockists khắp Indonesia, v.v.

Ở nước ngoài: Wisdom USA, Laotian NZ, Parallax Press USA, Kong Meng San SIN, Viriya SIN, Leow Liang SIN, Wisdom Sutra SIN, BPS SLK, Mingun Tipitakadhara MYM, Sun Lun MYM, v.v.

SangGar & Nhân viên nói tiếng Anh

Như một hình thức cam kết và năng lực, "Ehipassiko" hoạt động bằng cách quản lý một Studio tiếng Anh với đội ngũ nhân viên, bao gồm nhà văn, dịch giả, biên tập viên, nhà thiết kế đồ họa, họa sĩ minh họa, kế toán, hậu cần, thám hiểm và quản trị viên. 

"Phật pháp chỉ có nhất như, không nhiều. Nảy sinh sự phân biệt vì lợi ích của những người không hiểu" (Seng-Ts'an, Sesepuh Zen Ketiga)

"Ehipassiko" là một tổ chức phi giáo phái, luôn tôn trọng sự đa dạng của các truyền thống và văn hóa Phật giáo, ngay cả những người không theo đạo Phật. "Ehipassiko" đề cập đến các nguyên tắc đạo đức Phật pháp phổ quát (Kebenaran Universal), không dành riêng cho bất kỳ cá nhân hoặc nhóm cụ thể nào, bởi vì chân lý là không biệt đối xử, ánh sáng từ bi, trí tuệ đạo Phật "như mặt trời chiếu sáng cùng khắp không gian, bagai sang surya menyinari dunia", không phân biệt, không thiên vị.  

Ngoài phương pháp nêu trên, là người Phật tử chúng ta phải nhớ rằng, của cải mình có được không phải vĩnh hằng, vì thật ra kho tàng vĩnh hằng quý giá nhất, là kho tàng phúc đức, trí tuệ không thể mất đi, không thể chia cắt, không thể cướp đoạt được. 

Vì vậy, hãy tận dụng của cải vật chất hoặc sức lực trong việc chia sẻ với những người túng thiếu, khó khăn, để tích lũy hai loại tư lương thiết yếu cho con đường đến giác ngộ, công hạnh Phúc đức và Trí huệ. Còn được gọi tắt là Phúc trí.

Có một đoạn kinh ngắn về lời dạy của đức Phật bao hàm một triết lý kinh tế. Đức Phật dạy cho anh nông dân về cách sử dụng đồng tiền mình kiếm được, cụ thể:

Nên chia số tiền mình khó khăn có được thành bốn phần, phần đầu dùng để chi tiêu cuộc sống hàng ngày, hai phần tiếp dùng để đầu tư sinh lời, phần còn lại hoặc dùng tiết kiệm hoặc giúp đỡ người nghèo khó. Theo tinh thần lời dạy này thì luôn phải có một phần tích lũy một phần tư số tiền mình kiếm được để sử dụng đến khi cần thiết. Theo Phật giáo, chỉ cần một phần tư số tiền kiếm được, chúng ta vẫn có thể có một cuộc sống thuận lợi.

Những đồng tiền bạn kiếm được thật không dễ dàng phải không nào, đừng phung phí, chi tiêu tiện tặng, hợp lý, mua những thứ cần thiết, chi những việc cần chi, đừng sống xa hoa, mơ mộng, nghĩ về cha mẹ nhiều hơn, dùng tiền mình kiếm được mua cho cha mẹ những món quà dù nhỏ, cha mẹ cũng rất vui, tin tôi đi.

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: BuddhaZine Indonesia)

 
facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2019(Xem: 11299)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16243)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3509)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12897)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7588)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6775)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82236)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11138)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5333)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
28/06/2018(Xem: 5631)
Kính thưa Chư tôn thiền đức Ni, Hôm nay Cali trời đẹp nắng ấm của ngày 26 tháng 06 năm 2018 tại Trường Hạ Điều Ngự, Đại tăng và Sư bà TN Nguyên Thanh sai con là TKN Giới Hương vì đại tăng mà nêu lên vài ý về Ni giới trong buổi thuyết trình hôm nay. Con xin y giáo phụng hành và mạn phép chia sẻ với đề tài: Tương lai- Cơ hội - Thách thức cho Ni giới Việt Nam tại Hải ngoại. Nam Mô A Đi Đà Phật
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567