Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Nhắc Nhở Tu Học

08/01/201720:35(Xem: 3648)
11. Nhắc Nhở Tu Học
NHẮC NHỞ TU HỌC
Dạy chư Tăng Thường Chiếu nhân ngày
về thăm Hòa thượng tại Thiền viện Trúc Lâm.

Hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở tất cả quí vị những điều cần thiết trên đường tu hành. Trước hết tôi nói về tinh thần xây dựng Thiền viện Trúc Lâm và ý hướng của tôi mai sau cho chư Tănghiểu. Ngày xưa ở Thường Chiếu tôi cũng đem hết khả năng, tâm lực để hướng dẫn dạy dỗ chư Tăng tu hành, giúp quí vị có đạo lực mạnh mẽ. Nhưng vì tôi không hợp khí hậu ở Long Thành nên cứ đau hoài, việc dạy dỗ bị ngưng trệ, không được viên mãn. Sau khi nghỉ dưỡng bệnh ở Đà Lạt, tôi thấy khí hậu thích hợp với tôi. Có thể tôi là Sơn tăng, ông thầy ở núi quen rồi nên xuống đồng bằng không chịu, cứ bệnh hoài. Lên Đà Lạt tôi thấy cảnh và khí hậu trên đây thích hợp với người tu thiền nên tiến hành xin đất cất Thiền viện.

Khí hậu ở đây mát mẻ. Mấy chú thấy đó, đôi ba hôm nay ngồi thiền ít đổ mồ hôi như ở Thường Chiếu, đó là điều thứ nhất tôi thích. Điều thứ hai, trong khung cảnh rừng núi vắng vẻ rất tiện lợi cho người tu thiền. Điều thứ ba, trên này xa thành phố, ít ồn nên những tiếng động bên ngoài không làm mình xao xuyến, nhờ vậy sự tu hành dễ tiến bộ. Do đó tôi cho đây là nơi lý tưởng, muốn tạo một cái duyên cho chư Tăng Ni dễ tu. Tuy nhiên vì còn mới mẻ, việc sắp đặt chỗ ăn chỗ ở giới hạn, cũng như giấy tờ của mấy chú chỉ được chừng mực thôi, không như ở Thường ChiếuVì vậy tôi chỉ nhận trên bốn mươi vị Tăng, bốn mươi vị Ni tập tu trong giai đoạn đầu.

Nói thế không có nghĩa tôi dồn hết tâm lực ở đây mà bỏ quên Thường Chiếu. Tôi nghĩ rằng ở Thường Chiếu hiện giờ đa số những huynh đệ mới nhiều hơn huynh đệ cũ. Các vị ấy được tu học tại Thường Chiếu trước, sau nếu đủ duyên sẽ lên đây chuyên tu. Còn những vị ở đây khoảng thời gian chừng năm năm bảy năm, nếu sự tu hành tiến triển có khả năng đáng tin cậy, quí vị cũng phải gánh vác những Phật sự nơi này nơi khác. Lúc đó những huynh đệ ở Thường Chiếu có chí quyết tu muốn được yên tĩnh thì tôi sẽ chọn lên đây, không phải nơi này chỉ dành cho những người ở đây mãi mãi, hoặc những vị ở Thường Chiếu thì ở đó mãi mãi.

Tôi nghĩ đợt đầu những người đi trước phải chịu nhiều cực khổ nên cần sắp đặt ổn định. Tu một thời gian đâu đó đàng hoàng đáng tin cậy, khi nào Phật pháp cần tôi sẽ cho quí vị đi nơi này nơi kia để mở mang hoặc về phụ giúp Thường ChiếuĐồng thời tôi cũng nói cho huynh đệ biết, tôi chọn Thường Chiếu là trung tâm giữa Chân Không và Trúc Lâm. Vì Thường Chiếu ở giữa, nơi đó dễ tụ hội chư Tăng Ni và Phật tử. Trên này quá xa, còn ở Vũng Tàu cũng nhỏ. Chỉ có Thường Chiếu là đủ điều kiện hơn hết. Cho nên dù muốn dù không Thường Chiếu cũng là trung tâm quan trọng của các Thiền viện, nhất là các Thiền viện thuộc hệ thống của chúng ta hiện giờ. Như vậy mấy huynh đệ đừng nghĩ rằng ở dưới đó thua thiệt, mà chính là quí vị đang ở một trung tâm quan trọng của các Thiền viện. Những vị cũ tôi đã từng có những buổi giảng giải hoặc nói chuyện, còn những vị mới lâu lắm tôi mới có cơ hội gặp nên ít nói chuyện.

Hôm nay gặp quí vị ở đây tôi nhắc hai điều. Trước kia tôi đã từng nói trong nhà Phật, nhất là trong nhà thiền, thường dạy chúng ta khi phát tâm tu hành phải phát tâm mãnh liệt, kiên cốvững chắcHuynh đệ bỏ cả sự nghiệp thế gian để vào đạo tu hành, nếu chỉ vì buồn chán hoàn cảnh ở ngoài mà vào chùa tu, thì phát tâm không kiên cốChúng taphải hiểu rõ ràng, sở dĩ mình bỏ hết sự nghiệp thế gian vào đạo tu, là vì thấy biết rõ Phật pháp là con đường cứu khổ cho mình và chúng sanh. Cho nên chúng ta khẳng định phải tiến tu để thực hiện cho được hai điều cao quí ấy. Không phải mình đi tu vì những lý dotầm thường yếu ớt, mà đi tu vì lý do cao thượng. Đã là cao thượng thì phải khẳng định cuộc đời của mình không bao giờ lay chuyển. Dù gặp cảnh vui cảnh buồn, gặp khó gặp dễ, nhất định phải vượt qua hết. Đừng để những tầm thường vui buồn thương ghét làm trở ngại sự tu của mình.

Nếu quí vị bị những vui buồn thương ghét làm trở ngại, đó là tâm không kiên cố không vững chắcVì vậy mấy huynh đệ phải nhớ luôn luôn phát tâm vững chắcChính tâmvững chắc giúp chúng ta an ổn tu hành. Người thật tu không mong cầu điều gì, chỉ làm sao tu từ ngày mới phát tâm vào đạo cho tới ngày mình nhắm mắt, không bao giờ bị ngoại duyên làm xao động, không bao giờ bị ngoại duyên lôi cuốn chạy theo nó. Đó là tâm kiên cố.

Huynh đệ xuất gia ở đây cũng có nhiều vị trung niên lớn tuổi, có kinh nghiệm cuộc đờinên những khổ vui của thế gian đã thấy biết rồi, không còn lạ lùng nữa. Vì vậy khi bước vào đạo phải lập chí thật vững, không để vui buồn thế gian lôi kéo trở lùi, không bao giờ có niệm quay về hưởng thụ. Thật ra không có cái gọi là hưởng thụ, mà chỉ lao vào đau khổ thôi. Biết rõ như vậy nên sự tu hành của mình chỉ có một con đường tiến, không nghĩ gì khác, không có lối thứ hai, thứ ba. Không lùi không dừng lại mà luôn luôn phải tiến, tiến cho tới phút cuối cùng. Dù đời này chúng ta tu chưa viên mãn, nhưng cứ nỗ lựctinh tấn mãi mai kia nhất định sẽ được kết quả. Nếu không đủ một trăm phần trăm, ít ra cũng được sáu bảy mươi phần trăm. Đó là sự thật.

Mấy huynh đệ mới tu thời gian ngắn mà đòi kết quả thế này thế kia, không được liền nản, thối tâm. Đó là chuyện không hay. Ở thế gian người đời muốn học tới cử nhân tiến sĩ, không thể năm ba năm đạt được kết quả, ít nhất cũng phải mười năm trở lên. Cả một cuộc đời chuyên cần việc học mới đến nơi đến chốn. Cấp bằng thế gian còn phải như thế, huống là chúng ta tu chuyển hóa cả một cuộc đời phàm phu thành Thánh nhân. Chuyện đó không đơn giản, không dễ dàng mà chúng ta cứ muốn mau là điều không đúng. Bởi vậy chúng ta phải đi từng bước từng bước thật vững. Luôn luôn bước không được dừng, dù bước chậm cũng bước, đừng bao giờ dừng lại. Đó là người quyết tâmtiến tu cầu thoát khổ cho mình và cứu khổ chúng sanh. Đây là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai phải luôn luôn nhớ mình tu cả đời, chớ không phải tu có năm bảy năm. Chúng ta không bao giờ thấy lười thấy mỏi, không phải chỉ siêng năng những năm đầu thôi. Các chùa thường nói “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên”, tam niên Phật đi đâu? Phật về Cực Lạc mất rồi, bỏ mình lại bơ vơ. Ý nói người mới vào chùa năm đầu tinh tấn trăm phần trăm nên Phật tại tiền. Qua năm thứ hai giảm xuống tám chục phần trăm nên nói Phật thăng thiên. Qua năm thứ ba, thứ tư lùi lại chỗ cũ nên Phật về Cực Lạc mất tiêu, không còn ở gần mình nữa. Đó là nói người tu không có tâm bền bỉ lâu dàiThế gian thường ví những người như thế là đầu voi đuôi chuột. Trước coi hùng hổ lắm, nhưng rốt sau không ra gì.

Người tu làm sao trước sau như một. Vì vậy trong kinh Phật thường dạy chúng ta, mỗi sáng phải rờ đầu một lần để tự nhắc mình là người xuất gia, không có quyền lui sụt. Quyết tâm tu cả đờitự nhiên mình đi từng bước rất vững, không vội vàng, vì vội vàngsẽ vấp ngãChúng ta cứ đi mãi dù đường xa mấy rồi cũng phải tới. Nếu đường xa mà ta chạy gấp, chạy một đỗi mệt quá, sưng chân sưng cẳng lúc đó muốn dừng muốn chán. Cho nên cần đi vững và bền, dù đời này chưa xong chúng ta cũng tiến gần tới mục đíchđã nhắm. Đó là điều hết sức thiết yếu trên đường tu hành.

Quí vị đã quyết tâm tu phải hiểu tường tận lời Phật dạy. Nếu quyết tâm tu mà không hiểu lời Phật dạy thì quyết tâm đó trở thành rỗng. Vì vậy chúng ta phải hiểu Phật pháp cho thấu đáo. Chúng ta tu theo Phật thì những gì Phật dạy phải nghe, phải học và phải hiểu rõràng thấu đáo. Đừng nói tôi tu thôi không cần học, hoặc nói học để hiểu không bằng cố gắng hành. Nói như vậy là lầm. Không học làm sao hiểu, không hiểu làm sao hành? Cho nên Phật thường ví dụ người tu giống như người đi đường. Trước hết họ phải có đôi chân mạnh, kế đó có cặp mắt sáng. Nếu đôi chân mạnh mà mắt mù họ sẽ đi lạc. Nếu đôi mắt sáng mà đôi chân què thì đi không được. Cho nên cả hai phải hỗ tương nhau.

Đôi chân mạnh là sự quyết chí tu hành, đôi mắt sáng là đạo lý cần phải hiểu thấu đáo. Nhờ hiểu thấu đáo chúng ta biết đường nào chánh, đường nào tà, đường nào ngay, đường nào cong. Biết rõ ràng như thế thì không đi đường tà, luôn luôn đi đường chánh. Không vào những nẻo cong queo nguy hiểm mà luôn đi đường thẳng để tiến tới mục đíchđã nhắm. Người có chí tu cương quyết, vững mạnh, kiên cố, lâu bền là cặp chân rất mạnh. Nhưng nếu không nắm vững đạo lý là con mắt chưa sáng.

Cho nên thời gian ở Thiền viện, mấy huynh đệ ráng học kinh Phật dạy hoặc lời Tổ nhắc nhở. Chỗ nào chưa hiểu nghiền ngẫm tới lui cho kỹ, một ngày nào đó nó sáng ra. Như vậy đường tu mới yên ổnvững chắc. Nếu thiếu hiểu biết, không thấu đáo kinh điển là trở ngại lớn trên đường tu. Vì vậy ở Thiền viện lúc nào cũng nhắc nhở mấy huynh đệphải học. Nhưng người ta thường có bệnh ham tu hoặc ham học. Người ham tu không cần học, người ham học lại biếng tu. Đó là hai cực đoan.

Chúng ta làm sao quân bình được việc học và tu hỗ tương nhau. Học để biết tu, tu để tin hiểu hơn những điều đã học. Ví dụ mấy huynh đệ làm vườn, muốn trồng cây trước phải biết cây đó thuộc giống gì, tốt hay xấu, kết quả ra sao. Khi hiểu biết rồi, nhưng hiểu để mà hiểu, chớ không chịu trồng thì có kết quả không? - Không có. Hiểu rồi phải ứng dụngtrồng. Vì vậy Thiền viện bắt buộc mấy huynh đệ mỗi ngày đều học và mỗi ngày đều tu.

Chính tôi đã kinh nghiệm rất kỹ về điều này qua những năm tôi ở Phật học việnChúng tôi cắm đầu học mười năm trời, từ Sơ đẳng lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng. Mười năm học đó thời gian tu hết sức ít, nhiều lắm chỉ được hai thời công phu tối và khuya. Có khi không công phu luôn, nhất là gần thi thì bỏ hết, cứ cắm đầu học. Học rồi đâu có thì giờtu, phải đi giảng đi dạy lại cho người sau. Thành ra học hiểu giảng dạy cho ai tu, chớ bản thân mình không tu. Thật là đau!

Bởi không có thì giờ tu nên học giáo lý, hiểu mà phần ứng dụng không có kinh nghiệm. Do đó có tình trạng nhiều Giảng sư nói rất hay nhưng lâu lâu bị một con cọp cõng đi. Đó là kết quả học hiểu và nói suông mà không thực hành. Bởi thiếu hành nên không có đạo lực, bị duyên quyến rũ liền rớt. Việc học rất hay rất cần, nhưng phần hành không thể thiếu. Do đó ở Thiền viện tôi không đặt việc học như ở học viện. Ở học viện học để thi cử, để ra giảng dạy, còn ở Thiền viện học để tu.

Huynh đệ nhớ lại thời đức Phật, Ngài có dạy cho chư Tăng học để lấy cấp bằng không? - Không có. Phật dạy cho chư Tăng hiểu giáo lý rồi tu. Chư Tăng tụ họp lại gặp Phật, Phật giảng cho hiểu, hiểu rồi tu. Cứ như vậy lần lần nuôi dưỡng học tu, học tu cho tới ngày đạt kết quả tốt đẹp. Do vậy các đệ tử của Phật hiện đời chứng quả A-la-hán hay thành Bồ-tát chẳng hạn, đó là nhờ học và tu cân phân.

Nếu chúng ta nghiêng một bên, nói ham tu rồi cắm đầu tu mà không hiểu gì hết, khi tu gặp những chướng ngại đâm ra hoảng hốt, thối tâmHoặc giả khi tu thấy những hiện tượng lạ lùng đâm ra mừng, cho mình thành Thánh, nói bậy nói bạ, đó là trái với đạo lý. Bởi vậy ham tu mà không chịu học hoặc ham học mà không chịu tu đều là bệnh lớn. Hai bệnh này làm cho người tu bị trở ngại rất nhiều.

Huynh đệ mới xuất gia một hai năm, ráng học và tu cho quân bình. Càng lâu càng dài sự tu càng mạnh. Tuy nhiên lúc đầu việc tu còn khó khăn, ngồi thiền đau nhức, thức khuyabuồn ngủ. Đó là những trở ngại của sự tu nhưng cố gắng chúng ta sẽ vượt qua hết. Mấy huynh đệ bây giờ phước lớn lắm, trên có thầy, có các vị lãnh chúng hướng dẫn kềm chếcho tu, dưới có huynh đệ cùng nhắc nhở nhau. Thành ra tu có thầy có bạn đàng hoàng. Những năm tôi ngưng giảng dạy, lên núi tu một mình ở Pháp Lạc thất tại Vũng Tàu. Thời gian trước đi học cũng giảng dạy nên ít tu, vì vậy ngồi thiền không quen. Tới chừng bắt đầu hạ thủ công phu tu thiền, cái chân nó đã cứng ngắc rồi, kéo lên đau gần chết. Lại không có ai kềm, không ai theo dõi mình, thành ra tôi phải ngồi thiền trước cái tủ kiếng. Tôi nhìn vô coi mình ngồi ngay không, chớ có ai sửa giùm đâu. Vậy mà tôi cũng ráng tập. Ban đầu ngồi được nửa giờ, lần lần tăng ba mươi lăm phút, rồi tới bốn mươi phút, một giờ. Mỗi lần thêm năm phút là mỗi lần đau, đau thấu ruột gan chớ không phải vừa. Nhưng tôi ráng, ráng tới được một giờ. Có lần tôi ráng tới một giờ rưỡi, lúc đó cái chân tê cứng tới bụng, tôi tưởng như nó chết. Tôi chấp nhận chết tại bồ đoàn không xuống, thử cho mày chết một chuyến. Mà khá sao nó không chết, tôi xả ra xoa bóp kỹ càng, sau ngồi nữa.

Tôi thắc mắc tại sao người xưa ngồi hai ba tiếng, có khi cả một hai ngày không sao, mình ngồi có một giờ rưỡi mà như gần chết vậy, không biết tại sao? Tôi nghĩ mình phải cố gắng tiến nữa thử coi có chết không. Thế là tôi tiến lần lần từ một giờ rưỡi tới một giờ ba mươi lăm, bốn mươi rồi tới hai giờ. Bỗng dưng lúc ấy hết tê, tôi mới giựt mình. À, rõ ràng qua cái chặng đó thì khỏe lại, khi hết tê lần lần tôi ngồi khỏe hơn. Sau này có mấy chú mấy cô ngồi tám tiếng, mười tiếng, mười mấy tiếng. Rõ ràng chúng ta cố gắng nó sẽ qua, không như mình tưởng chắc chết, chịu không nổi. Hồi xưa tôi hay lặp đi lặp lại câu “nếu chịu nổi thì chưa chết, nếu chết thì chịu hết nổi, cho mày chết trên bồ đoàn luôn, không xấu hổ”. Tu không ra gì thì xấu hổ lắm, cho nên chấp nhận chết trên bồ đoàn, nhưng nghĩ vậy lại không chết.

Ngày xưa tôi tu một mình không thầy, không bạn, chỉ có những bộ kinh gối đầu nằm, như cuốn Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán của Trí Khải đại sưTọa Thiền Tam-muội, Lục Diệu Pháp MônTham Thiền Yếu Chỉ… tôi đã dịch sang tiếng Việt. Tôi y cứ mấy bộ đó như bản đồ để theo dõi việc tu của mình. Khi công phu gặp trục trặc, tôi giở ra coi. Về kinh, nhất là bộ Lăng Nghiêm, tôi lấy đó làm chuẩn, để biết cái nào ma mình tránh, cái nào không phải ma mình tu. Cứ thế tôi tự mày mò, ráng tìm ra con đường tu thiền rõ ràngnhư hôm nay. Đã bao nhiêu ngày tôi phải khóc, vì thấy mình tu mù mù mịt mịt, chỉ biết lạy Phật mà khóc thôi, không biết làm sao hơn.

Huynh đệ bây giờ tu khỏe hơn tôi ngày trước rất nhiều. Thầy bạn không thiếu, kinh sách có đủ, vừa trục trặc khó khăn liền có người nhắc nhở, ngồi thiền đúng hay sai có người sửa, gục có người đánh cho tỉnh. Như vậy quá tốt mà tu không được là lỗi tại quí vị. Trên đường tu chúng ta không nên xem thường, phải thấy là việc tối quan trọng của cuộc đờimình. Phải quyết tiến, quyết làm cho được mới mong đạt kết quả. Người xưa bảo “muốn là được, quyết là thành”. Tôi lấy câu đó làm căn bản, việc gì quyết định tiến tới thì nhất định sẽ thành công. Nếu chúng ta làm trong ngờ vực, hoặc làm lưng chừng thì khó thành công.

Nói cho mấy chú biết rõ như thế để khéo ứng dụng tu. Chúng ta có khả năng vươn lên chớ không phải không, nhưng vì ý chí không mạnh, quyết tâm không cao nên bị trở ngại vươn lên không nổi. Nếu ý chí mạnh, quyết tâm cao nhất định chúng ta sẽ vươn lên không nghi ngờ. Việc tu không phải khó, mà khó vì chúng ta không quyết tâm, không bền chí. Nếu quyết tâm bền chí, con đường tu sẽ có kết quả. Người xưa cũng khóc lên khóc xuống như mình chớ đâu phải các ngài thảnh thơi. Có những vị ngồi thiền ngủ gục quá, các ngài tự trị bằng cách trèo lên cháng ba cây ngồi. Ngồi đó nếu ngủ gục, cắm đầu xuống hố chết luôn. Nhờ vậy sợ quá mãnh tỉnh, không dám gục. Các ngài liều tới mức đó mới qua được những chướng duyên, đâu phải người xưa làm gì cũng dễ, mình làm khó. Người xưa gặp rất nhiều khó khăn, như Trưởng lão Mục-kiền-liên khi ngồi thiềncũng bị ngủ gục giống hệt chúng ta ngày nay. Vì vậy mấy huynh đệ đừng hiểu lầm riêng cá nhân mình tu khó, người khác tu dễ. Người xưa tu đạt kết quả là do các ngài đã vượt qua bao nhiêu khó khăn, khổ nhọc. Ngày nay chúng ta tu cũng phải chấp nhận mọi khó khăn, đau khổ để vươn lên.

Đức Phật từ một vị Hoàng tử trở thành người xuất gia sống hết sức đơn giản. Chỉ có ba y, một bình bát đi khất thực, không có gì là sự nghiệp hết. Trước đó Ngài đã tìm chỗ này chỗ kia học, không thỏa mãn nên tự tu tập khổ hạnh, cho tới chỉ còn da bọc xươngCuối cùng Ngài thấy phương pháp này chưa phải cứu kính, nên sống bình thường lại. Sau đó Ngài tọa thiền dưới cội bồ-đề trải qua bốn mươi chín ngày đêm, tuệ giác phát sanh mới đạt đạo. Như vậy Ngài trải qua bao nhiêu khó khổ mới được kết quả thành Phật mỹ mãn. Nếu Ngài nói mình gốc Bồ-tát, ngồi đạo tràng năm bảy ngày ngộ đạo, thì chúng ta ngày nay tu không được là phải. Ngài khổ như vậy chớ đâu phải đơn giản. Năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh mới thành tựu đạo quả.

Chúng ta sánh với Ngài khổ chừng bao nhiêu phần trăm? Chẳng được bao nhiêu phần trăm, mà còn than “tu coi bộ phiền quá, khổ quá”. Yếu đuối như vậy làm sao đạt đượckết quả cao quí. Cho nên huynh đệ phải lập ý chí, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khổ để vươn lên. Nhờ khó khổ tôi luyện mình mới cứng cáp mạnh mẽ. Có cứng cáp mạnh mẽ cộng thêm ý chí hỗ trợ mới dễ đạt đạo. Nếu chúng ta lơ là lôi thôi thì khó có thể đạt đạo. Người nào vào đạo với tinh thần tu cầm chừng thì không bao giờ tiến được. Có tiến chăng cũng chỉ ở chùa quét lá đa, chờ già nhắm mắt được vô nghĩa địa nào đó. Vậy thôi.

Người tu phải gan dạ, cương quyết. Nhờ gan dạ cương quyết mình vượt qua hết khó khăn. Hết khó khăn mới được an lạc. Tôi khẳng định với mấy huynh đệ, tu là một nguồn an lạc, không phải khổ đau. Nhưng muốn hưởng an lạc trước phải trải qua những khó khăn, gian khổ. Chính ngài Hoàng Bá đã nói muốn ngửi được mùi thơm của hoa mai phải chịu qua một mùa đông lạnh lẽo. Có chịu lạnh thấu xương mới ngửi được mùi thơm hoa mai. Con đường chúng ta đi là con đường tươi sáng tốt đẹp, nhưng muốn tiến tới chỗ tươi sáng tốt đẹp, phải qua những khúc quanh co chông gai lầy lội.

Mấy huynh đệ nhìn từ đức Phật, tới các Tổ, rồi tới quí thầy gần mình, vị nào làm được chút ít Phật sự, được nhiều người quí mến, đều phải chịu cực khổ, gian lao. Chúng ta tu là chọn con đường cao quí tốt đẹp, không phải chọn con đường đau khổ. Nhưng vì cao quí tốt đẹp nên phải chịu khó chịu cực, vượt qua những khó khăn ban đầu mới đến chỗ cao quí an lạc.

Ở thế gian nếu tuổi thanh niên thì chỗ nhắm là có gia đình, phải không? Mà có gia đình là tiến lên con đường hạnh phúc hay con đường đau khổ? Có gia đình rồi thì có con, bắt đầu nuôi con. Một đứa nuôi chưa xong, lại thêm đứa nữa. Chừng ba bốn đứa thì đầu tắt mặt tối. Lo cho đứa này chưa hết tới đứa kia, muốn con được khỏe mạnh, ăn học tới nơitới chốn với người ta, đủ thứ lo. Con lớn lo cho có đôi bạn. Chừng đó mình già khằn sắp chết. Như vậy đó là con đường tối hay sáng? Con đường tối tăm mà tất cả người đời đều phải chấp nhận.

Chúng ta ở đây đi trên con đường rất tươi sáng, sẽ tiến vào được cảnh tự do tự tại. Bước vào đạo là tự do tự tại rồi, vì có gì ràng buộc đâu. Trong chùa chỉ ràng buộc theo nội qui của Thiền việnRàng buộc cho mình yên tu, chớ không phải ràng buộc để làm khổ mình. Ở ngoài con đau cha mẹ có ngồi yên không? - Không. Còn trong Thiền việngiả sử huynh đệ đau thì đưa xuống bệnh xá có người chăm sóc. Chăm sóc chu đáo mà không phải lo rầu như cha mẹ. Anh em huynh đệ hay mình bệnh cũng vậy, đều được chăm sóc như nhau, khỏi vay nợ, khỏi lo chuyện gì cả. Thảnh thơi.

Nhiều khi ở thế giancha mẹ hi sinh trọn đời cho con, tới con lớn lên chắc gì nó hiếu thảo. Có đứa không thèm nuôi cha mẹ mà còn nói nặng nhẹ nữa. Trong đạo, chúng ta tu hành có đức hạnhđệ tử xuất gia đối với Thầy Tổ rất quí kính, đệ tử tại gia cũng thương. Khi cần gì họ sẵn sàng giúp đỡ mình. Như vậy con đường nào sáng hơn? Ở thế giancàng ngày càng lún sâu trong nghiệp ác, còn chúng ta đi tu càng ngày càng gỡ bỏ những điều xấu xa, càng ngày càng tốt. Đứng về nghiệp ác nghiệp thiện, người tu đã chọn con đường lành. Giả sử chúng ta tu chưa giải thoát sanh tử, khi trở lại cũng bảo đảm đi đường lành. Nếu ở thế gian tới già chưa chắc mình không tạo nghiệp ác. Đã tạo nghiệp ác thì nhắm mắt dễ gì trở lại làm người.

Hơn thế nữa, nếu chúng ta cố gắng vươn lên, từ một con người phàm phu thường tình, gội rửa sạch hết những thói phàm tình, lần lần tiến lên thành Thánhđẹp đẽ biết chừng nào. Cả thế gian đều quí đều kính. Nên biết con đường chúng ta đã chọn là con đường lý tưởng cao siêu, còn con đường thế gian là con đường đen tối đau khổ, nên tránh xa. Quí vị nào tu hành để tâm lui sụt, lâu lâu lùi bước, đó là muốn trở lại con đường tối tăm đầy hiểm họa. Như vậy rất uổng công mình đã chọn lựa một con đường tốt, mà không đầy đủ ý chí nghị lực để đi suốt con đường ấy. Cho nên muốn thoát khỏi hầm lửa hay muốn vào hầm lửa đều do chúng ta quyết định cả thôi.

Mong chư Tăng tự lo liệu lấy đời tu của mình!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8136)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16466)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12449)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19897)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4424)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4308)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5026)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4255)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4237)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11571)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567