Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo ửng dụng và môi sinh - Biện Pháp Làm Chậm Thực Trạng Hâm Nóng Địa Cầu

09/12/201518:31(Xem: 7202)
Phật Giáo ửng dụng và môi sinh - Biện Pháp Làm Chậm Thực Trạng Hâm Nóng Địa Cầu


Tam Thuong Dinh
Lời dẫn: Bài thuyết trình này đã chia sẻ tại Hội Phật Giáo Mỹ Châu, Chùa Hoa Nghiêm do Đoàn Bô Lão tổ chức.
PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG VÀ MÔI SINH – 
Biện Pháp Làm Chậm Thực Trạng Hâm Nóng Địa Cầu



            Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
            Lorenzoni, I., & Pidgeon, N. F. (2006) lại cho rằng, “Nếu không kiểm soát được, ảnh hưởng của con người lên hệ thống khí hậu có thể tạo ra những biến đổi nguy hiểm tai hại cho những khía cạnh khác liên quan đến sự sống cho mọi loài trên cả trái đất này. Thầy Thích Nguyên Hiệp trong bài, Đạo Đức Học Phật Giáo Và Vấn Đề Môi Trường, cũng viết. “Thế giới loài người luôn phải đối mặt với những thảm họa do thiên nhiên gây ra: bão lụt, động đất, núi lửa, sóng thần… là những vấn đề con người phải thường xuyên nhận lãnh suốt theo chuỗi lịch sử phát triển của mình. Và ngày hôm nay, mức độ thảm khốc của những điều này đang tăng dần lên là  do  có sự góp mặt của những tác nhân tiêu cực của  chính con người tạo ra. Bên cạnh những thảm họa thiên nhiên như thường thấy, sự ô nhiễm không khí, cạn kiệt nguồn nước ngầm, đất đai xói mòn, sa mạc hoá, biến đổi khí hậu và đánh mất hệ sinh thái là những thảm họa kinh hoàng khác mà nhân loại đang đối mặt. Những thảm họa đó đang diễn ra khắp nơi, ai cũng biết cũng thấy, nhưng vì nhu cầu cuộc sống và vì phát triển kinh tế, thiên nhiên ngày càng bị con người đối xử tệ bạc, bất chấp những rủi ro khốc liệt hơn mà họ sẽ hứng chịu.”
            Đất nước Việt Nam của chúng ta cũng phải nhận trách nhiệm trong hiện trạng này ngày càng xấu hơn về việc thay đổi khí hậu toàn cầu. Theo World Population Review (2015), dân số Việt Nam đã lên đến 94.5 triệu người, đứng hàng 14 trên thế giới, chiếm 1.33% tổng số dân thế giới. Dân Việt Nam ngày càng đông mà tài nguyên quốc gia thì ngày càng cạn kiệt, không còn “rừng vàng biển bạc” như thời chúng tôi còn đi học trường làng. Vấn nạn ô nhiễm thì trầm trọng, bắt nguồn từ sự phát triển công nghệ, lạm dụng quyền uy, thiếu ý thức hệ, và thiếu chính sách bảo vệ môi sinh, v.v... Hiện tại, ở VN giai cấp giàu và nghèo ngày càng tăng và sự tiêu xài bất kể của số người giàu đó (thành phần 1%) đã và đang làm môi trường sống tại Việt Nam ngày càng xấu đi.
            Do đó, vấn đề về môi trường, từ việc nhỏ như vệ sinh công cộng đến những công nghệ sản xuất làm biến đổi khí hậu, chúng ta phải thận trọng vì việc làm của mình ảnh hưởng đến với nhiều thế hệ trong mai hậu. Thầy Thích Tâm Pháp trong bài Phật Giáo và Môi Trường, Tuyển tập Phật Thành Đạo, Nhiều tác giả, ở Phần III có đề cập:  “Đức Phật ra đời và thành đạo không gì hơn là vì lòng thương tưởng đến chúng sanh đang khổ đau do ba độc tham, sân, si hoành hành. Do lòng tham muốn thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người phải chịu nhiều thảm họa khổ đau. Muốn chấm dứt đau khổ, con người phải sống đúng theo chánh pháp, tức sống theo qui luật tự nhiên hay luật nhân duyên sanh khởi. Theo qui luật này, con người, loài vật, cỏ cây cùng tồn tại trong mối liên hệ hỗ tương và tùy thuộc lẫn nhau. Thiên nhiên cung cấp môi trường sống cho loài người và động vật. Ngược lại loài người phải có ý thức bảo vệ thiên nhiên để giữ môi trường trong sạch và cân bằng sinh thái.”

Tam Thuong Dinh-3

            Hơn bao giờ hết, chúng ta ai cũng phải có trách nhiệm và bổn phận cho thế hệ con cháu của mình, nhất là chúng ta sinh ra làm người Việt Nam. Tình yêu thương tổ quốc và nỗi lo âu cho tổ quốc là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người con Việt. Cho nên chúng ta không những quán chiếu những gì xảy ra trong ta và quanh ta. Nếu nhìn về khía cạnh quốc gia dân tộc, có thể nói một cách khác là chúng ta phải nhận thức những gì xảy ra trong đất nước mình và các nước láng giềng. Hiện nay nhà nước Trung Hoa đã xây nhiều con đập lớn cùng với nhiều thủy điện trên sông Mekong, làm băng hoại môi sinh và ảnh hưởng xấu cho các nước ở hạ lưu sông này.  Trong bài tham luận về dòng sông Cửu Long (Mekong River) tại Hội nghị Vesak Liên hiệp quốc từ 27-30 tháng 5, 2015 tại Bangkok, Thái Lan. Chúng tôi có trình bày Dòng sông Mekong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy qua sáu quốc gia bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, dài 4500 km và sông dài thứ 12 trên thế giới.  Trong hai mươi năm qua có một chương trình khai thác thủy điện trên sông Mekong (Richard Cronin, 2010; Scott Pearse-Smith, 2012). Tính đến năm 2014, có 26 đập thủy điện trên dòng chính, 14 đập trên sông Lan Thương (tên của thượng nguồn Sông Mekong ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc) và 12 đập trên hạ nguồn Mekong.  Sự ngăn cản dòng chảy tự nhiên của dòng sông Mekong đều có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái một cách trầm trọng và ảnh hưởng tất cả 6 nước, nhất là các nước nằm ở hạ nguồn như Campuchia và Việt Nam.  Chúng tôi tuyên bố rằng đập thủy điện gây ra thảm họa kinh tế và môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người ở các nước hạ nguồn. Lũ sông Cửu Long xảy ra hàng năm từ tháng sáu đến tháng mười với hàng trăm người bị thiệt mạng.  Hầu hết các nạn nhân lũ lụt là trẻ em chết đuối do thiếu sự giám sát của người lớn tuổi trong gia đình. Trong bản Tuyên cáo Bangkok (Bangkok Declaration) của Hội nghị Vesak Liên Hợp Quốc đã nêu lên vấn đề Mekong và đã yêu cầu các nước trong cộng đồng ASEAN và các nước láng giềng hợp tác để giải quyết tình trạng khẩn cấp của sông Mekong và hệ sinh thái.
            Ngoài ra, những thuỷ điện lớn mà Trung Quốc đã xây, Chính quyền lại còn xây dựng những nhà máy nguyên tử hạt nhân rất gần với Việt Nam chẳng hạn như Nhà máy Fangchenggang ở gần thành phố Qinzhou thuộc Quảng Tây, chỉ cách biên giới Việt Nam có 45 km (30 miles) và nhà máy điện hạt nhân khác, Changjiang, ở phía Tây đảo Hải Nam. Tuy các nhà máy nguyên tử hạt nhân không gây ra thực trạng hâm nóng địa cầu, nhưng có liên quan đến vấn đề an toàn, an ninh và an nguy của tổ quốc Việt Nam. Vì nếu có  sự cố xấu có thể xảy ra từ những nhà máy hạt nhân Trung quốc gần biên giới miền Bắc Việt Nam, thì không những người dân thấp cổ bé họng tại Trung Hoa bị ảnh hưởng nặng nề và cả những người dân Việt Nam vô tội cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chúng tôi đã nghiên cứu và kết luận trong bài Ảnh Hưởng Nhà Máy Điện Hạt Nhân Của Trung Quốc Và Sự An Nguy Của Tổ Quốc, rằng “Nói tóm lại vì lợi ích chung của nhiều người và của nhiều thế hệ, chúng ta cần nhận thức rõ ràng về sự nguy hiểm của nguồn điện nguyên tử hạt nhân. Và phải học hỏi những cách thức chuẩn bị, đề phòng và đáp ứng cho gia đình mình, cộng đồng và đất nước mình nếu không may sự cố tai nạn có thể xảy ra. Riêng về hai nhà máy hạn nhân của  Trung Quốc nói trên, chúng ta cần phải theo dõi thường xuyên để chuẩn bị đối phó và giảm thiểu những thiệt hại về sinh mạng cũng như kinh tế cho người dân nước ta.”


Tam Thuong Dinh-2

           Trong bài này, lập trường của chúng tôi cũng rất rõ là đất nước Việt Nam chưa sẵn sàng xây dựng và quản lý những nhà máy nguyên tử hạt nhân. Chúng tôi đề nghị thay cho nhà máy điện nguyên tử hoặc thuỷ điện như sau; “Một thay thế khả thi và bền vững đối với các đập là năng lượng mặt trời và gió. Công nghệ nhẹ cũng đã được đề xuất như là chiến lược khả thi để phát triển kinh tế. Các nước và các dân tộc dọc theo sông Cửu Long đa số là Phật tử, Tăng đoàn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tác động các chính sách của chính phủ, giáo dục công chúng về các chi phí và tác động môi trường của các đập và lợi ích của năng lượng sạch và tái tạo được. Những nỗ lực này có thể giảm thiểu xung đột trong tương lai, các thảm họa kinh tế và môi trường và dòng sông Phật giáo sẽ tránh được một cái chết khủng khiếp”.  Vì thế, chúng ta phải ý thức về vấn nạn môi trường và hâm nóng địa cầu ngày càng trở nên xấu đi thì chúng ta và con cháu phải gánh lấy hậu quả khôn lường.
            Với người con Phật, nhất là Phật giáo Ứng dụng là điểm khởi đầu. Phật Giáo Ứng Dụng ra đời từ thập niên 1960’s trong Chiến tranh Việt Nam do Thiền sư Thích Nhất Hạnh phát khởi để áp dụng kiến thức Phật giáo thành những hành động cụ thể, đem thiền định và Phật pháp vào đời để vơi đi những tình huống khổ đau từ xã hội đến chính trị, từ kinh tế đến môi trường cho con người và xã hội. Theo hai nhà nghiên cứu Queen, Chris và King, Sallie (1996), Phật Giáo Ứng Dụng được vun trồng, phát triển và khá phổ biến ở phương Tây. Chúng ta nên đem thông điệp hiểu biết và thương yêu (từ bi và trí tuệ) để làm cho cuộc đời bớt khổ.  Phật giáo Đại Thừa đi vào cuộc đời bằng sự nỗ lực tích cực, (tự độ, độ tha; tự giác, giác tha). Đạo Phật chọn con đường Trung Đạo. Nghèo đói, dốt nát, thì không có hạnh phúc hoặc nhu cầu căn bản chưa đủ đáp ứng thì khó mà tu tiến. Cần ‘xoá đói, giảm nghèo’ thực sự và nâng dân trí cũng như có tự do dân sự, dân chủ, nhân bản, v.v… thì xã hội mới thăng tiến và có ý thức để bảo vệ và gìn giữ môi sinh hầu làm chậm lại việc hâm nóng địa cầu để bảo tồn trái đất mẹ.
            Điểm chung, con người đều có nhu cầu cơ bản, ở đâu cũng vậy, ai ai cũng muốn có hoặc phấn đấu cho có được một cuộc sống an vui và hạnh phúc. Chúng ta muốn có cuộc sống an lạc, lành mạnh, và hài lòng với cuộc sống này, nơi mà chúng ta không quá lo lắng, và luôn quan tâm đến thế hệ mai sau.  Ai cũng biết là cuộc đời là cõi tạm, và chúng ta chỉ có một trái đất Mẹ mà hơn 7 tỷ người đang chung sống. Việc còn lại là chúng ta cần và nên làm những gì để cứu vãn tình thế này. Vì thế chúng ta có thể làm những việc cụ thể trong giây phút hiện tại nhằm cải thiện cuộc sống cho mình và cho tha nhân.
   Những Biện Pháp có thể làm thay đổi Carbon footprint:

I. Đối với cá nhân và gia đình:

  1. Thiểu dục tri túc, sống đời giản dị (fugal living)
  2. Ăn chay ít nhất mỗi tuần một ngày (pick a day for vegetarian/vegan day)
  3. Ăn ít thịt lại Hoặc không ăn thịt (không ăn thịt mỗi tuần 1 ngày hoặc bỏ ăn thịt. Meatless Monday or Make it Easter once every week)
  4. Giảm lại, dùng lại, và tái sử dụng (Reduce/Reuse/Recycle)
  5. Dấn thân làm môi trường sống, làm việc và giải trí của mình đang ở xanh, sạch, và đẹp.

II. Đối với cộng đồng / tiểu bang:
  1. Tạo những chính sách / luật lệ / chương trình làm tốt cho môi trường sinh thái
  2. Dùng năng lượng xanh hoặc năng lượng tái sử dụng (Use alternative energy or reusable energy).
  3. Cần ủng hộ những phong trào lành mạnh như living green, earth day.
  4. Khuyến khích và tham gia những tổ chức lành mạnh và hữu ích cho môi trường
  5. Trồng trọt những vườn ăn, rau quả cho cộng động, chương trình Farm to Fork.
III. Đối với liên bang / quốc gia
  1. Chấp nhận những Công ước quốc tế để làm giảm carbon footprint và dùng năng lượng tái tạo.
  2. Các nước phát triển, loại trừ hoặc giảm những chất liệu nguyên tử hạt nhân, chiến tranh hoá học, sinh học, v.v…
  3. Cân bằng phân phối thực phẩm và của cải (food and wealth distribution)
  4. Xoá bỏ thế thể độc tài, cần thấu hiểu mối tương sinh, tương quan trong vũ trụ
  5. Đối với những nước chưa phát triển (như Việt Nam) – Tạm thời, chưa nên có điện tử hạt nhân vì còn thiếu nhân tâm, khả năng, kinh nghiệm.
            Cuối cùng, đây là bổn phận và trách nhiệm chung của tất cả chúng ta để bảo vệ hành tinh duy nhất mà con người đang sống.  Không những thế, mỗi người công dân trên hoàn vũ này, nhất là những nhà lãnh đạo, nhà giáo dục, chính trị gia, v.v… phải cho đây là trách nhiệm đạo đức và luân lý để bảo tồn trái đất Mẹ. Vậy chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình mới, dấn thân để thay đổi cuộc sống cho chính mình và những người xung quanh ngày càng tốt đẹp hơn và để lại trái đất này tươi tốt trong sạch cho những thế hệ kế thừa trong đó có con cháu của chúng ta.


Trần Tiễn Khanh, AMI Environmental, USA.
Tâm Thườnh Đinh (Bạch X. Phẻ), nhà giáo dục tại San Juan Unified School District, Sacramento, CA.

Tài liệu tham khảo/References:

1. Cox, P. M., Betts, R. A., Jones, C. D., Spall, S. A., & Totterdell, I. J. (2000). Acceleration of global warming due to carbon-cycle feedbacks in a coupled climate model. Nature, 408(6809), 184-187.

2. Hansen, J., Sato, M., Ruedy, R., Lacis, A., & Oinas, V. (2000). Global warming in the twenty-first century: An alternative scenario. Proceedings of the National Academy of Sciences, 97(18), 9875-9880.


3. Schuldt, J. P., Konrath, S. H., & Schwarz, N. (2011). “Global warming” or “climate change”? Whether the planet is warming depends on question wording. Public Opinion Quarterly, nfq073.

http://worldpopulationreview.com/countries/vietnam-population/

4. Lorenzoni, I., & Pidgeon, N. F. (2006). Public views on climate change: European and USA perspectives. Climatic change, 77(1-2), 73-95.

5. Queen, C. S., & King, S. B. (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: Albany State University Press. p. 2. ISBN 0-7914-2843-5.


6. Thích Nguyên Hiệp, Đạo Đức Học Phật Giáo Và Vấn Đề Môi Trường. Thư Viện Hoa Sen. Tải xuống ngày 27 tháng 10, 2015. http://thuvienhoasen.org/a4365/dao-duc-hoc-phat-giao-va-van-de-moi-truong-thich-nguyen-hiep


7. Thích Tâm Pháp, Phật Giáo và Môi Trường trong Tuyển tập Phật Thành Đạo. Nhiều tác giả, ở Phần III. Tải xuống ngày 20 tháng 10, 2015. http://www.tuvienquangduc.com.au/DucPhat/40td-tamphap.html


8. Time for Change. Cause and effect for global warming. Tải xuống ngày 10 tháng 10, 2015. http://timeforchange.org/cause-and-effect-for-global-warming


9. Trần Tiễn Khanh và Bạch X. Phẻ (2015), Ảnh hưởng nhà máy điện hạt nhân của trung quốc và sự an nguy của tổ quốc. Phe Bach’s Blog. Tải xuống ngày 20 tháng 10, 2015. http://phebach.blogspot.com/2015/06/anh-huong-nha-may-ien-hat-nhan-cua.html


10. Walther, G. R., Post, E., Convey, P., Menzel, A., Parmesan, C., Beebee, T. J., ... & Bairlein, F. (2002). Ecological responses to recent climate change. Nature, 416(6879), 389-395.


11. World Population Review (2015). Vietnam Population 2015.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8154)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16543)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12520)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19971)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4451)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4330)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5043)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4266)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4250)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11627)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567