Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Về Hơi Thở

05/11/201315:45(Xem: 36111)
05. Về Hơi Thở

mot_cuoc_doi_bia_3



Về Hơi Thở




Ra giêng, thời tiết có nắng nhẹ, dễ chịu, đức Phật và hội chúng tỳ-khưu chuẩn bị du hành sang nơi khác; hai hàng cư sĩ và quần chúng quyến luyến, sụt sùi tiễn chân dọc hai bên đường. Tôn giả Sāriputta đi sau cùng, dừng lại thuyết cho họ nghe một thời pháp, dạy phải biết áp dụng Bốn Niệm Xứ trong đời sống để vượt thoát khổ ưu, nhất là chấm dứt được ngay những giọt nước mắt ái niệm để có được sự an vui trong hiện tại. Hãy trở lại với hơi thở đi thôi! Hãy an trú vào hơi thở đi thôi!

Mọi người đã nghe lời, ra về hết, tôn giả Ānanda hóa ra vẫn chưa chịu rời vị sư huynh khả kính, đáng mến của mình, ngài hỏi:

- Hơi thở! Hơi thở! Thưa tôn huynh! Thế nào an trú hơi thở có hiệu quả để được hiện tại pháp lạc?

- Hay lắm! Này hiền đệ! Câu trả lời này chỉ có đức Tôn Sư mới có đủ thẩm quyền để giảng nói. Tôi là ai mà lại dám đánh trống qua cửa nhà sấm?

Khi dừng chân tại khu rừng cây đa ven đường, độ ngọ xong, đức Phật lựa ngồi một chỗ cao ráo dưới gốc cây; tịnh chỉ một lát rồi ngài nói với đại chúng vây quanh:

- Đáng lý ra, về hơi thở, về an trú hơi thở trong hiện tại, Sāriputta có khả năng, có duệ trí để trả lời cho Ānanda nghe được, nhưng do bản chất khiêm tốn, do tôn kính Như Lai, do không dám qua mặt Như Lai; lại còn muốn cho phần đông được nghe nên ông ta đã thoái thác như vậy đấy!

Tôn giả Ānanda nói:

- Lành thay! Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử muốn nghe cho rõ ràng về hơi thở, cách thở, toàn bộ nguyên lý của nó để khả dĩ tu tập Bốn Niệm Xứ một cách có hiệu quả hơn.

- Vậy thì hãy nghe đây, này chư tỳ-khưu! Như Lai sẽ giảng, nhưng Như Lai sẽ thuyết tóm tắt, còn Sāriputta sẽ thuyết lại bằng trí tuệ phân tích chi ly, sắc bén của ông ta; và cũng nhờ thế, các thầy có thể đặt câu hỏi, đưa ra câu trả lời giữa nhau như là buổi hội thoại, một cuộc pháp đàm thú vị vậy.

Rồi đức Thế Tôn đã giảng như sau:

- Này chư tỳ-khưu! Phép quán niệm hơi thở nó có lợi ích tối thượng, có hiệu quả và công năng tối thượng. Người sơ cơ khi tu tập sẽ làm cho lắng dịu bất an, rối loạn do nóng nảy, giận hờn, bức xúc, buồn chán... gì gì đó tan biến đi. Kẻ trung căn thì giảm trừ được phóng dật, buông lung, trạo cử, vọng tưởng, thất niệm, bất giác do đã có chỗ để nương tựa, đã có chỗ để an trú. Bậc thượng căn, nếu muốn định, có định, đi sâu vào các tầng thiền định; muốn tuệ, có tuệ, từ cạn vào sâu để lần lượt chứng đắc các tầng thánh đạo quả!

Này các thầy tỳ-khưu! Thở thì ai cũng phải thở, có thở mới sống được, nhưng mấy ai thấy mình đang thở, biết mình đang thở và thở ra sao? Dường như ai cũng giao phó việc ấy cho sinh lý tự nhiên của cơ thể - thở, dường như là phận việc, chức năng của bộ phổi, ít ai để ý tới! Và quả đúng như thế, tất cả mọi người, tất cả chúng sanh không ai quan tâm đến hơi thở cả; cái mà họ quan tâm là làm thế nào cho mình được sung sướng; gia đình, vợ con mình được ăn ngon, mặc đẹp, sở hữu tài sản kho đụn; còn thế gian, mọi người, dầu cho đói khổ, thiên tai, dịch họa họ cũng không màng quan tâm! Chuyện ấy thì chư vị biết rồi, Như Lai không cần nhắc lại. Chỉ cho đến khi tay đã nhúng chàm, chỉ đến khi tội lỗi đã đắm sâu, chỉ cho đến khi đau khổ, thống khổ, chán chường, tuyệt vọng... họ mới đấm ngực, bức tóc, than cha, oán mẹ, kêu trời, kêu đất. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp chỉ nói đến khổ, nguyên nhân khổ và con đường diệt khổ. Vậy những ai cảm thấy mình đau khổ thì hãy đến với giáo pháp của Như Lai. Và tập thở, lắng nghe hơi thở, theo dõi hơi thở, an trú vào hơi thở là bước đầu tiên của con đường nội quán.

Này các thầy tỳ-khưu! Trong thời pháp hôm trước, khi quán niệm thân, Như Lai có nói đến hơi thở như dài ngắn, sâu cạn, thô tế chúng vào ra như thế nào, cần phải chú niệm. Ở đây, Như Lai cũng trở lại đề tài này nhưng sẽ rộng rãi hơn, chi tiết và có hệ thống hơn, không chỉ dành riêng cho lãnh vực thân mà cả thọ, tâm và pháp nữa. Chúng ta sẽ có bốn cách thở thuộc quán niệm thân, bốn cách thở thuộc quán niêm thọ, bốn cách thở về quán niệm tâm và bốn cách thở về quán niệm pháp. Hãy lắng nghe và Như Lai sẽ giảng nói.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là bốn cách thở thuộc về quán niệm thân?

Ở đây, vị tỳ-khưu khi thở vô dài, biết rõ, thấy rõ đang thở vô dài. Khi thở ra dài, biết rõ, thấy rõ đang thở ra dài.

Khi thở vô ngắn, biết rõ, thấy rõ đang thở vô ngắn. Khi thở ra ngắn, biết rõ đang thở ra ngắn.

Cảm giác toàn thân khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác toàn thân tôi thở ra, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..

An tịnh thân hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. An tịnh thân hành khi thở ra, vị thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..

Bốn cách thở thuộc về thân này, Như Lai nhắc nhở các thầy chữ tuệ tri, nghĩa là thấy rõ, biết rõ hơi thở thực, trực tiếp trên hơi thở đang vận hành vào ra, xuống lên chứ không bởi tưởng tri hay thức tri. Cảm giác toàn thân là ghi nhận trực tiếp, trọn vẹn toàn thân hơi thở; phải học, phải thực tập, phải thực hành bài học hơi thở ấy. Càng thực tập, càng chú niệm thì hơi thở sẽ càng ngày càng nhẹ nhàng, vi tế hơn. Khi mà hơi thở nhẹ nhàng, vi tế thì cái thân sẽ không còn thô cứng, tê ngứa hoặc nhức đau nữa, nó đã được ổn định rồi, đã được điều phục rồi. Hơi thở an tịnh, thân cũng được an tịnh. Chính ở đây là an tịnh thân hành khi thở vô, an tịnh thân hành khi thở ra; phải tuệ tri điều ấy, thực tập điều ấy.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là bốn cách thở thuộc về quán niệm thọ?

Cảm giác hỷ khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác hỷ khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Cảm giác lạc khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác lạc khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy..

Cảm giác tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

An tịnh tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. An tịnh tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Đây là lãnh vực của cảm thọ, cảm giác nhưng đã được loại trừ khổ và ưu. Tại sao vậy? Vì khi hơi thở đã nhẹ nhàng, thân đã ổn định, an tịnh thì khổ và ưu không còn tồn tại mà chỉ có các cảm thọ hỷ, lạc trên lộ trình tu tập thiền quán. Vậy, khi có hỷ hay có lạc, vị ấy vẫn với tuệ tri, nhìn ngắm chúng như chân, như thực khi thở vô cũng như khi thở ra. Khi mà lạc đã thấm sâu, đến độ sung mãn thì tâm như được thấm ướt, tẩm mát rồi nó sẽ đưa đến sự an tịnh của tâm. Và đây chính là an tịnh tâm hành, là pháp lạc, là thực phẩm an lạc, nó nuôi dưỡng thân tâm trên lộ trình tu tập của mỗi người.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là bốn cách thở thuộc về quán niệm tâm?

Cảm giác tâm khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác tâm khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Với tâm hân hoan khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm hân hoan khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Với tâm định tĩnh, khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm định tĩnh khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Với tâm giải thoát, khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm giải thoát khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Tâm ở đây, nó không đơn giản là tâm thức hay tâm ý. Nó gồm cả tưởng, hành và thức. Nó gồm tất thảy tâm vương và tâm sở. Nói cách khác, nó gồm cả mười sáu loại tâm trong thời pháp quán niệm tâm. Tuy nhiên, ở đây, do thân tâm đã trở thành một khối thuần nhất an tịnh thì các loại tâm xấu, ác, bất thiện sẽ không còn tồn tại. Nếu hơi thở càng được an trú thì an tịnh càng được kiên trú, theo đó, các loại tâm lành, tốt, thiện sẽ nẩy sinh, nó chi phối, lây lan ảnh hưởng làm cho thọ, tưởng và các tâm sở liên hệ cũng đều được thấm nhuần, thanh lương; và đó là các loại tâm hân hoan, định tĩnh, giải thoát.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là bốn cách thở thuộc về quán niệm pháp?

Với vô thường tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với vô thường tùy quán khi thở ra, cũng y như thế..

Với ly ái tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe theo dõi, ghi nhận. Với ly ái tùy quán khi thở ra, cũng y như thế.

Với tịch diệt tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tịch diệt tùy quán khi thở ra, cũng y như vậy.

Với xả ly tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với xả ly tùy quán khi thở ra, cũng y như vậy.

Khi tâm đã có được hân hoan, định tĩnh, giải thoát, nghĩa là giải thoát tạm thời được các triền cái, kiết sử, trần cấu, thầy tỳ-khưu còn cần phải đi sâu vào quán chiếu, minh sát các pháp để phát sanh tuệ giác, tuệ minh. Đến đây, thầy tỳ-khưu quán sát như thực tánh thấy rõ sắc sanh sắc diệt, thọ sanh, thọ diệt, tưởng sanh, tưởng diệt, hành sanh hành diệt, thức sanh, thức diệt. Nói gọn hơn là danh sắc sanh, danh sắc diệt. Chúng sanh diệt rất nhanh, chúng tụ rồi tan, chúng có rồi mất, chúng đến rồi đi. Nói cách khác, chúng sanh khởi, an trú, lụi tàn... tức là thay đổi, biến hoại, vô thường. Nhờ vô thường tùy quán(1)ấy mà thầy tỳ-khưu không còn thấy tướng của các hành, mở được cánh cửa thứ nhất là vô tướng giải thoát(2).

Còn ly ái tùy quán? Ở đây vì thấy tất cả mọi danh sắc, nghĩa là thân hành, tâm hành đều thay đổi, biến hoại, vô thường nên thầy tỳ-khưu sẽ không khởi lên lòng ái dục với các pháp hữu vi, với các hành(1)nữa nên gọi là ly ái; và cũng nhờ ly ái tùy quán(2)nên thoát khỏi các khổ, mở được cánh cửa giải thoát thứ hai là vô ái giải thoát(3).

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là tịch diệt tùy quán(4)? Tịch diệt nghĩa là vắng lặng các hành, nghĩa là Niết-bàn. Thật ra, hai cửa trước đã hàm nghĩa Niết-bàn rồi; một, hai phần Niết-bàn; nhưng chỉ có ở đây Niết-bàn mới toàn diện hơn. Ở đây, khi thầy tỳ-khưu thấy được sự vắng lặng các hành, hoặc các hành là rỗng không như thân cây chuối không có lõi, các hành vô ngã, đồng nghĩa thấy được không tánh của các hành trong đạo lộ siêu thế, vị ấy mở được cánh cửa cuối cùng được gọi là tịch diệt giải thoát hoặc không tánh giải thoát(5).

Cuối cùng, này các thầy tỳ-khưu! Là xả ly tùy quán! Khi thấy được vô tướng, vô ái, không tánh, vị ấy đã giải thoát, biết mình đã giải thoát nhưng không chấp thủ vào giải thoát ấy nên được gọi là xả ly tùy quán. Nói cách khác là để tâm rỗng rang, không dính mắc bên trong, không dính mắc bên ngoài để tùy duyên rộng độ chúng sanh.

Này các thầy tỳ-khưu! Đấy là nguyên lý thở; nói cách khác là toàn bộ cách thở, phương pháp thở trong bài pháp Bốn Niệm Xứ! Không có, không còn một cách thở nào khác. Hãy như thế mà thọ trì! Điều gì chưa lãnh hội, chưa khai thông thì cứ hãy tìm bậc Chưởng giáo của các ông mà học hỏi để tu tập cho có hiệu quả hơn.



(1)Aniccānupassī - người ta thường dịch là vô thường tùy quán – nhưng thật ra, anupassī đồng nghĩa với anupassaka - người đứng quan sát, là người đứng xem- là người đứng quan sát vô thường thì chính xác hơn.Cũng có từ tương đương là Aniccānupassanā.

(2)Animitta vimokkha: Vô tướng giải thoát. Ý nói- vì chúng thay đổi luôn – nên các pháp vốn không có một tướng nào cả, một thực thể nào cả.

(1)Saṅkhāra: Hành, sự lăng xăng tạo tác - gọi chung là 50 tâm sở - đi liền với các tâm vương để tạo tác các nghiệp bất thiên, thiện, bất động – thành dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu để thọ sanh ba cõi dục, sắc và vô sắc giới.

(2)Virāgānupassī: Ly ái tùy quán. Thật ra rāga ở đây hàm nghĩa cả tham, cả ái, cả dục, cả tình dục. Vì ly ái nên thoát khỏi các khổ - nên còn được gọi là khổ tùy quán (dukkhanupassanā). Cũng có từ tương đương là vô nguyện tùy quán (appaṇihītānupassanā).

(3)Arāgā vimokkha: Vô ái giải thoát – cùng một nghĩa vô nguyện giải thoát (appaṇihīta vimokkha).

(4)Nirodhānupassī: Tịch diệt tùy quán – cùng một nghĩa với không tánh tùy quán (suññātanupassanā).

(5)Suññāta vimokkha: Không tánh giải thoát. Giải thích thêm: Vì thấy mọi danh pháp, sắc pháp đều duyên khởi, vô tự tính, vô ngã – nên thấy được không tánh của các pháp.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2012(Xem: 5809)
Trong suốt dòng lịch sử tư tưởng của nhân loại, cách riêng, của Tây phương, chưa có tư tưởng gia nào gây ra nhiều tranh luận, mâu thuẫn, ngờ vực và nhất là ngộ nhận như Friedrich Nietzsche (1844-1900).
20/02/2012(Xem: 7507)
Nếu bạn dự định đăng tải gì đó, bạn phải luôn tự hỏi: Nó có đúng không? Nó có cần thiết không? Nó có phù hợp không?
17/02/2012(Xem: 4044)
Hôn nhân là một quy ước xã hội, một thể chế được tạo nên bởi con người vì sự thiết thực và hạnh phúc của con người, để phân biệt xã hội loài người từ đời sống động vật và duy trì trật tự và hòa hợp trong quá trình sinh sản. Mặc dù các kinh điển Phật giáo không nói gì đến chủ đề của chế độ một vợ một chồng hoặc chế độ đa thê, các Phật tử được khuyên nên giới hạn bản thân để chỉ có một vợ. Đức Phật không đặt quy tắc về cuộc sống hôn nhân nhưng đã đưa ra lời khuyên cần thiết về việc làm thế nào để sống một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
17/02/2012(Xem: 4483)
Đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời, bởi vì Phật giáo bao gồm nhiều tông phái và sự thực hành, hoặc những gì chúng ta gọi là truyền thống. Những truyền thống này đã phát triển trong những thời điểm khác nhau và các nước khác nhau, và trong vài mức độ cách biệt nhau. Mỗi tông phái đã phát triển tính năng đặc biệt mà một người quan sát bình thường có thể nhận ra được sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, những khác biệt này thường xuyên bao phủ văn hóa một cách đơn thuần, và trong các trường hợp khác, chúng nó chỉ khác biệt trong sự chú trọng cách tiếp cận. Trong thực tế, tất cả các truyền thống được củng cố bởi điểm cốt lõi của niềm tin và sự thực hành phổ biến
17/02/2012(Xem: 4756)
Đây là một thời đại trong đó vấn đề tình dục được thảo luận với sự cởi mở lớn. Có rất nhiều người bị bối rối khi tìm hiểu thái độ của Phật giáo đối với tình dục, và vì thế mong rằng các việc hướng dẫn sau đây có thể tìm ra hữu ích hướng tới sự hiểu biết. Dĩ nhiên, đó là đúng để nói rằng Phật giáo, trong việc duy trì nguyên tắc của con đường Trung đạo sẽ không ủng hộ chủ nghĩa đạo đức cực đoan hoặc sự buông thả thái quá, nhưng điều này, như một nguyên tắc hướng dẫn mà không có chi tiết kỹ thuật xa hơn, có thể dường như không có khả năng lợi ích cho hầu hết mọi người
17/02/2012(Xem: 5209)
Trong bài này, tôi tham khảo các loại dược phẩm- ý nghĩa của tất cả các loại thuốc, bất cứ điều gì chúng ta có thể trở nên quen thuộc và rồi chúng ta thích thú tùy theo mức độ phụ thuộc. Điều này có vẻ như những loại dược phẩm bị hiểu lầm. Chúng nó có một lịch sử rất dài. Tất cả mọi người, và trong mọi lúc, cần một cái gì đó để làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa và hầu như luôn luôn có nhu cầu đối với các loại dược phẩm, thức ăn, tình dục, cũng như tôn giáo.
16/02/2012(Xem: 7860)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
15/02/2012(Xem: 8303)
Trường Đại Học Dharma Realm Buddhist và Đại Học San Francisco State. Tài liệu nghiên cứu "Súc Quyền và Sự Quan hệ của Con Người Đối Với Sinh Vật Học-San Francisco State University” (March 29-April 1, 1990). Tôi muốn bàn đến hai ví dụ nổi bật về loài vật hành động với nhiều nhân tính hơn hầu hết con người. Quan điểm của tôi không phải cho rằng động vật nhân đạo hơn con người, nhưng điều này có một bằng chứng rằng động vật có thể hành động theo những cách mà không chứng minh bằng những khuôn mẫu nhất định của phương Tây về năng lực của chúng.
15/02/2012(Xem: 4740)
Một sự phân tích về Phật giáo xác minh rằng nhân quyền có thể bắt đầu ở Ấn Độ, nơi sinh của Phật giáo. Vào năm 1956, BR Ambedkar, người đạo Hindu đã quy y Phật giáo và đưa gần 4.000.000 người giai cấp “hạ tiện” khác cùng quy y.[1] Sangharakshita, một Phật tử đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào cải đạo hàng loạt mà Ambedkar vận động, các ký giả viết về Ambedkar
15/02/2012(Xem: 3749)
Hai nghìn năm trước, nhân loại không có kinh nghiệm với sự đe doạ nghiêm trọng thực sự đối với sự sống còn của mình. Khi bước vào thiên niên kỷ này, chúng ta có một sự khủng hoảng ngày càng tệ hơn về môi trường của trái đất, và điều này đã làm dấy lên một sự đe doạ thực sự đối với sự tồn tại của con người trên quy mô toàn cầu. Hệ sinh thái của trái đất có cơ nguy cơ thoái hóa nếu sự suy thoái của môi trường sẽ không được lùi lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]