Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi điều về vai trò của người cư sĩ.

09/04/201313:30(Xem: 5279)
Đôi điều về vai trò của người cư sĩ.

cu-si-tai-giaĐôi điều về vai trò của người cư sĩ

Minh Chi

(Học viện Phật giáo Việt Nam)

Cư sĩ là ngoại hộ thiện tri thức, cho nên nếu cư sĩ có một nhận định đúng đắn về vai trò của mình, tu học và sống theo đúng vai trò đó thì chắc chắn Giáo hội PG sẽ có một bước tiến bộ vượt bậc.

1. Từ cư sĩ xuất hiện đầu tiên ở kinh nào?

Theo Hòa thượng Thánh Nghiêm, tác giả cuốn Phật giáo chánh tínthì từ cư sĩ xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Duy Ma Cật. Trong kinh, ngài Duy Ma Cật được gọi bằng ba danh hiệu: một là Trưởng giả trong phẩm "Phương tiện", hai là Thượng nhânhay Đại sĩtrong phẩm "Văn Thù thăm bệnh", ba là Cư sĩ trong phẩm "Bồ tát".

Theo các ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Trí Khải thì ngài Duy Ma Cật nguyên là một vị Bổ xứ Bồ tát (vị Bồ tát sắp chứng quả Phật) trên cõi Phật A Thiềm ở phương Đông. Để hỗ trợ cho sự nghiệp giáo hóa của Phật Thích Ca ở cõi Ta bà, ngài Duy Ma đã thị hiện thành một vị tại gia mà trình độ giác ngộ, giải thoát của ngài khiến cho một vị Bồ tát trí tuệ hàng đầu như Bồ tát Văn Thù cũng phải kiêng nể. Như vậy trong kinh Duy Ma, từ cư sĩđồng nghĩa với từ đại Bồ tát.

Từ cư sĩ trong các kinh A hàm:

Trong kinh Trường A Hàmcó từ cư sĩ báu,chỉ cho vị quan đại thần trông coi kho vàng bạc của vua Chuyển luân vương. Rõ ràng từ cư sĩ ở đây chỉ cho nhà quản lý được vua trọng dụng. Ở Ấn Độ ngày xưa đẳng cấp thứ ba sau hai đẳng cấp Bà la môn và Sát đế lỵ là đẳng cấp Vệ xá (Vaisyas) bao gồm các công thương gia, các nhà doanh nghiệp. Từ cư sĩ báunói trên chỉ các công thương gia, các nhà doanh nghiệp thuộc đẳng cấp Vệ xá này.

Vào thời Phật Thích Ca, từ cư sĩ được dùng rộng rãi để chỉ các gia chủ có thể là Phật tử hay không phải là Phật tử. Trong kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt(Trường A Hàm, từ Ca La Việt chỉ cho Cư sĩ. Kinh này ở tạng Pali, có tên là Singalovada, dịch ra chữ Hán là kinh Thiện Sanh).Như vậy, từ cư sĩ trong kinh Singalovadađồng nghĩa với từ gia chủ.

Sau này, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, phạm vi từ cư sĩ thu hẹp lại để chỉ riêng cho những người Phật tử tu tại gia. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đời Lý - Trần có những ông vua Phật tử tuy không xuất gia nhưng vẫn là những thiền sư lỗi lạc, nổi tiếng, những nhà Phật học uyên bác như Lý Thái Tôn, vua thứ hai đời Lý, đệ tử đắc đạo của Thiền sư Thiền Lão. Theo Thiền uyển tập anh, ngài được xếp là một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 9 của phái thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông, vua thứ 3 đời Lý, được công nhận là Tổ thứ 2 của phái thiền Thảo Đường (phái thiền thứ 3 của Việt Nam). Vợ vua là thứ phi Ỷ Lan được nhân dân tôn xưng là Quan Âm nữ cũng là một cư sĩ xuất sắc, có một bài thơ thiền được lưu lại trong sách Thiền uyển. Đời Trần, vua Trần Thái Tông, tác giả cuốn Khóa hư lụcvà Tuệ Trung Thượng sĩ đều là những cư sĩ nổi tiếng mà ngay các tu sĩ cũng đều tôn xưng họ là những bậc thầy trong đạo. Vua Trần Nhân Tông sau này xuất gia lập ra phái thiền Yên Tử cũng tôn xưng Tuệ Trung Thượng sĩ là đạo sư của mình.

2. Người cư sĩ với thân phận tại gia, có thể giác ngộ và giải thoát được hay không?

Theo tôi, người cư sĩ Phật tử Việt Nam ngày nay một mặt tiếp tục duy trì thái độ khiêm tốn truyền thống, tôn trọng Tam bảo, thân cận học hỏi nam nữ tu sĩ như là những bậc thầy tâm linh trong đạo. Nhưng mặt khác – và đây là điều quan trọng hơn – không có mặc cảm tự ti, phát tâm dũng mãnh tu học, mong cầu cũng được giải thoát và giác ngộ như các Tổ cư sĩ ngày xưa trong lịch sử Phật giáo nước nhà.

Trên bước đường tu học, cư sĩ Việt Nam ngày nay được động viên bởi lời khuyên của các vị Tổ như Trần Thái Tông:

"Mặc vấn đại ẩn tiển ẩn, bất câu tăng tục, hưu biệt xuất gia tại gia, nhi chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng" – (Khóa hư lục)

Dịch nghĩa:

"Không phân biệt là sống ở đời hay sống trong rừng, không phân biệt tại gia hay xuất gia, chỉ cốt yếu là biện tâm, vốn không nam nữ, sao lại chấp tướng".

Tổ Trần Nhân Tông trong bài phú Cư trần lạc đạohồi III lại còn khẳng định hơn nữa:

"Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật cả đồ công"

Giải nghĩa:

"Là người tại gia mà tu học thành công được giác ngộ và giải thoát thì phúc đức ấy thật là đáng quý hết sức, còn tu ở núi rừng (xuất gia tu ẩn) mà vẫn không giác ngộ (cốc từ nôm nghĩa là giác) thì thật là uổng công".

Chúng ta thấy rõ qua lời dạy của ngài Trần Thái Tông, người cư sĩ (tất nhiên người xuất gia cũng thế) phải biết tu tập tâm. Trần Thái Tông nói biện tâm tức là tìm hiểu tâm mình, tu tập tâm mình.

Muốn tu tập tâm tất nhiên phải luôn luôn tỉnh giác quan sát tâm mình; trong tâm mình nảy sinh ra cảm thọ gì, ý nghĩ gì, quyết định gì chúng ta đều phải biết rõ. Đó là cảm thọ ý nghĩ quyết định đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực, có lợi hay có hại cho mình hay cho người để kịp thời điều chỉnh uốn nắn.

Trong kinh Pháp Cú,phẩm "Tâm", Phật dạy nhiều về vấn đề tu tập tâm mà cư sĩ ngày nay nên luôn luôn suy ngẫm:

Kệ 33:

"Người trí làm tâm thẳng

Như thợ tên làm tên..."

Kệ 35:

"Lành thay, điều phục tâm

Tâm điều an lạc đến..."

Kệ 36:

"Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ an lạc đến..."

Như chúng ta thấy, Đức Phật khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh giác để uốn nắn tâm như thợ làm tên uốn nắn tên vậy, phòng hộ tâm, điều phục tâm khi chúng ta gặp phải các nghịch cảnh có thể làm chúng ta nảy sinh ra phiền não tham, sân, si v.v... Có thể nói đời sống người tại gia tạo ra cho họ nhiều cơ hội để hiểu biết tâm mình, rèn luyện tâm mình, bồi dưỡng những đức tính đáng quý như nhẫn nhục, kiên trì, tinh tấn.

---o0o---

Nguồn: Xuân Giác Ngộ 2005

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/12/2012(Xem: 10424)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
19/11/2012(Xem: 6958)
Tuy đức Phật không bàn chuyên vấn đề kinh tế, thế nhưng những ý kiến của Ngài phát biểu trong một số trường hợp cá biệt về vấn đề kinh tế, rất đáng được chúng ta lưu tâm, suy ngẫm. Đức Phật hết sức quan tâm đến động cơ và nội dung đạo đức của mọi chính sách và thực tiễn phát triển kinh tế, trong khi các nhà kinh tế học hiện đại lại rất coi nhẹ các vấn đề này.
19/11/2012(Xem: 10378)
Trước hết, Phật giáo không bác bỏ linh hồn, nếu linh hồn được hiểu đơn giản như là phần phi vật chất trong mỗi con người. Trong thuyết cơ bản của Phật giáo, như thuyết năm uẩn, phân tích người là một tập hợp năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong 5 uẩn thì chỉ có sắc uẩn là vật chất, còn 4 uẩn còn lại đều là phi vật chất, hay là thuộc phạm trù tinh thần.
16/11/2012(Xem: 5256)
Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính tùy thuận bậc Ðạo Sư; sống cung kính tùy thuận pháp; sống cung kính tùy thuận chúng Tăng; sống cung kính tùy thuận học pháp; sống cung kính tùy thuận không phóng dật; sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Ðây là nhân, đây là duyên, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài
30/10/2012(Xem: 4104)
Một điều hiển nhiên là chiến tranh và các cơ sở quân sự lớn là nguồn bạo lực lớn nhất trên thế giới. Cho dù mục đích của chúng là phòng thủ hay tấn công, các tổ chức bạo lực mạnh mẽ này tồn tại chỉ để giết người. Chúng ta nên suy nghĩ cẩn trọng về thực tế của chiến tranh.
23/10/2012(Xem: 8130)
Sau khi Trưởng lão Mahinda, con trai của vua A Dục, truyền bá Phật pháp đến Srilanka và thực hiện một số việc liên quan đến việc truyền bá Phật pháp, vị vua trị vì đảo quốc này đã hỏi Trưởng lão rằng, có phải Tăng đoàn đã được thiết lập vững chắc ở đảo quốc này rồi không.
20/10/2012(Xem: 4918)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly (Vidūdabha), được ghi lại một cách chi tiết trong kinh Tăng Nhất A Hàm.
10/10/2012(Xem: 9495)
Tôi muốn nói một vài điều về sự hòa hợp tôn giáo. Đôi khi, sự xung đột liên quan đến niềm tin tôn giáo. Thí dụ, trước đây ở Bắc Ái Nhĩ Lan, mặc dù sự xung đột đơn giản chỉ là vấn đề chính trị, nhưng nó đã nhanh chóng trở thành một vấn đề tôn giáo... Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
08/10/2012(Xem: 9751)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
02/10/2012(Xem: 12493)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]