Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và sự khoan dung cho những dị biệt tôn giáo.

09/04/201312:54(Xem: 4137)
Phật giáo và sự khoan dung cho những dị biệt tôn giáo.

PHẬT GIÁO VÀ SỰ KHOAN DUNG
cho những dị biệt Tôn Giáo & Đức Tin

Sulak Sivaraksa

Mỹ Thanh dịch Việt

Để tránh việc đơn giản hóa, tôi đề nghị mỗi tôn giáo lớn trên thế giới nên bao gồm hai khía cạnh chánh: thứ nhất là Tình thương đại đồng, và thứ hai là tình thương đoàn thể trên hết tất cả tông phái, hoặc chỉ cho mình là trọng tâm.

Nếu chúng ta không cẩn thận, tôn giáo của chúng ta có thể trở nên cố chấp, vì chúng ta thấy chỉ có tôn giáo mình mới chân chính và đưa đến giải thoát, và những người khác tôn giáo là những kẻ lạc đường.

Thật không may, vẫn còn những tôn giáo vẫn tìm cách khuyến dụ người vào đạo, bằng những lý tưởng có hại , không sáng suốt. Tôi muốn nhắc đến một đoạn trong " Cuộc truyền giáo ở ngoại quốc" (Overseas Missionary Fellowship - August-September, 1987). Bài nầy có tựa đề là " Tìm tự do thật sự ở Thái Lan."

Đối với chín mươi chín phần trăm dân Thái, bị ảnh hưởng của ma quỷ là một nỗi sợ hãi lớn... Nhất là đối với những dân tộc bộ lạc tin vào thuyết duy linh (animistic), luôn cả những nhà thương mại giàu có, sinh viên, và nông dân chất phác, cũng không ngoại lệ...

Trong câu chuyện, trong chương trình truyền hình, hay những đồ trang trí của cá nhân hay nơi nhà ở cũng thể hiện ảnh hưởng nầy.

Hiện tại, chưa có gì cũng như chưa có ai có thể làm cho con người bớt nỗi lo sợ trong việc tìm cách ''vận dụng '' những sức mạnh của thần thánh, đồng thời họ cũng có thể trở thành nạn nhân của những sức mạnh nầy.

Nếu các bạn có đọc bài nầy, các bạn sẽ đi đến kết luận là dân Thái muốn được cứu rỗi phải nhờ đến những nhà truyền giáo, hoặc nếu là dân bộ lạc thì phải cần viện trợ của Mỹ. Tôi nghĩ rằng những người bám chặt vào tôn giáo hay lý tưởng là những người khó có thể kính trọng được người khác, nhất là những người nghèo, vì biết đâu những người nầy lại rất tự hào về tôn giáo của họ và chưa chắc là họ kém hơn những nhà giáo sĩ về phần tâm linh .

Thật ra danh từ "chủ nghĩa tông phái, bộ lạc" không phải là một từ ''làm giảm giá trị '', nhưng khi một tôn giáo lớn hay quyền lực tối cao trở thành ''tông phái '', thì nó dễ bị thoái hóa thành đạo đức giả và kiêu mạn, và từ đó có thể dẫn đến kỳ thị chủng tộc, như chúng ta thấy ở Nam Phi và những nơi khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta chú tâm đến những khía cạnh của tôn giáo về tình thương đại đồng, thì chúng ta sẽ trở nên khiêm tốn hơn, vị tha hơn và thật sự kính trọng tất cả -- từ con người, thú vật, cho đến những hiện tượng thiên nhiên. Từ đây, sự phát triển về xã hội cũng như kinh tế sẽ trở nên bất bạo động. Chúng ta sẽ không còn tàn ác với đồng loại , và biết mến yêu trái đất. Chúng ta cũng không nhân danh sự phát triển mà cướp đoạt những tài nguyên thiên nhiên. Những khu rừng sẽ được bảo vệ, sông ngòi sẽ khỏi bị ô nhiễm. Và chúng ta sẽ hiểu rằng sự phát triển chỉ có thể xảy ra trong vòng hiểu biết giữa con người với muôn vật.

Để gạt bỏ chủ nghĩa: tông phái, bộ tộc, dân tộc, tư bản và tiêu thụ, người có tín ngưỡng cần phải thực tập với tình thương đại đồng. Trong khi chúng ta làm việc riêng hay tư, bất cứ ở đâu, chúng ta phải nên suy nghĩ một cách bao quát, để cho tính vị kỷ có thể từ từ trở thành vị tha.

Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ biết kính trọng những tôn giáo và những lý tưởng khác một cách hết lòng. Mặc dầu bạn có thể không hoàn toàn đồng ý với tầm nhìn và đức tin đó, bạn vẫn có thể kính trọng nó.

Kể cả khi chúng là những kẻ áp bức bạn, bạn cũng không cần ghét họ, vì sự thù ghét chỉ làm hại cho chính bản thân mà thôi.

Thay vì thù ghét những kẻ áp bức bạn, bạn nên tìm hiểu hệ thống áp bức và thử tìm cách để thay đổi nó, với tính cách bạn bè tốt giúp đỡ nhau, để khắc phục khó khăn, đau khổ, trong môi trường phát triển văn hóa và tâm linh -- cũng như phát triển xã hội và kinh tế.

Nếu bốn sự phát triển: văn hóa, tâm linh, xã hội và kinh tế được hợp nhất, tức thời sự phát triển thật sự của nhân loại sẽ được thể hiện.

Tiếc thay, trong hai thế kỷ qua, tình thương đại đồng nơi tôn giáo đã thoái hóa và dường như được thay thế bằng tình thương tông phái, và cho đến nay trở thành một quy tắc tiêu chuẩn.

Phần lớn các nhà thờ, nhà nguyện khoan dung và ủng hộ chế độ đang cầm quyền không cần thiết là chế độ đó áp bức hay không. ( Dĩ nhiên là có những ngoại lệ). Và khi mà chủ nghĩa tư bản xuất hiện, Tin lành, Công giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo dường như chỉ phục vụ cho những kẻ giàu có, trong khi những nhà giáo sĩ, tu sĩ thì chỉ phục vụ dân nghèo "bằng miệng."

Trong điều kiện tốt nhất, họ xung phong chăm sóc người nghèo túng, nhưng cho đến nay vẫn không có dấu hiệu gì cho thấy là vấn đề xã hội và kinh tế được thay đổi để bao người hưởng được sự công bình và hạnh phúc.

Tỷ lệ kém dinh dưỡng của trẻ em đang gia tăng, cùng với nạn du lịch mãi dâm, chế độ quân phiệt, chế độ tư bản và tiêu thụ cũng không giảm. Nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đang tìm cách liên kết với các giáo sĩ thế tục để thay đổi nơi đây thành một nơi an lành và ý nghĩa, nhưng cho đến nay cũng chưa tạo được những thay đổi căn bản phổ biến trong việc bảo đảm quyền lợi của con người khỏi sự bóc lột của chính trị và tôn giáo.

Tây Tạng, Miến Điện, và Bangladesh có những tình trạng đặc biệt, nhưng sự đau khổ, nói chung xuất hiện ở khắp mọi nơi. Thêm vào đó, sự thiếu thốn lương thực, nhà ở, quần áo, thuốc men cho một số đông các nước là một điều thật kinh khủng -- chưa nói đến sự khổ vì nước và không khí bị ô nhiễm.

Thật ra sự gia tăng của các giáo sĩ thế tục có học thức là một nguyên nhân chánh để hình thành một thế giới mới. Nhìn qua lịch sử thì chúng ta thấy:

Sự hướng dẫn xã hội từ lúc khởi đầu, thật ra, bắt đầu nơi các tu sĩ, người sao chép kinh sách, thầy bói, cùng những nhà trí thức ; nhưng sự cải tiến của họ về mặt đạo đức và lý tưởng bị hạn chế bởi những truyền thống lâu đời, cũng như những quyền lực bên ngoài. Và do đó, họ không thể trở thành những nhà tư tưởng tự do.

Với sự suy thoái về quyền lực của giới tu sĩ từ thế kỷ thứ mười tám, một loại nhà giáo dục mới xuất hiện để điền vào chỗ trống đó và họ đã chiếm được cảm tình của xã hội thời bấy giờ. Những nhà trí thức có thể là nhà thần học, kẻ hoài nghi, hay kẻ vô thần. Và họ cũng sẵn sàng chỉ dẫn con người về mặt đạo đức như những giám mục hay mục sư. Họ tuyên bố ngay từ buổi đầu, với sự nhiệt tâm làm lợi ích cho con người, với nhiệm vụ rao giảng phúc âm.

Sự hiểu biết tổng quát trong quá khứ, truyền thống, và những kinh nghiệm của người đi trước được chọn lựa kỹ lưỡng để được học theo hoặc bị loại bỏ.

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, với sự lớn mạnh của niềm tự tin và lòng bạo dạn, con người đã vươn lên và lên tiếng là họ có thể phân tách những cái sai và có thể sửa chữa những điều nầy dựa vào sự hiểu biết của họ: Hơn nữa, họ có thể đặt kế hoạch mà nếu dựa vào đó, chúng ta có thể thay đổi kiến trúc xã hội, và những thói quen căn bản của con người cũng theo đó mà được hoàn hảo hơn. Không như những giáo chức đi trước, tự coi mình là người thay thế Thượng đế.

Những nhà trí thức đã soi xét kỹ lưỡng các tôn giáo đã giúp ích hay làm hại con người và những giám mục, giáo sĩ có giữ mình hay không, có thật sự từ bi và vị tha, và những kết luận được nhìn nhận nơi các giáo chức cũng như nhà thờ thật là không hay chút nào.

Trên hai thế kỷ qua, sự ảnh hưởng của tôn giáo đang trên đà suy thoái và những giáo sĩ thế tục, trí thức đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành quan điểm của chúng ta cũng như những tông phái. Nhìn vào những nhà trí thức trên thế giới đã góp phần hình thành thế giới sau cuộc cách mạng Pháp, Nga, cho đến sự cách mạng văn hóa ở Trung Hoa, và chế độ Pol Pot ở Cam bốt, tôi đi đến một kết luận khá đau lòng là những giáo sĩ đứng đầu, đã làm chúng ta thất vọng -- cho dù họ là Rousseau, Karl Marx, Tolstoy, Brecht, Bertrand Russell or Mao Tse-Tung.

Đặc biệt, nếu chúng ta chú ý đến những gì họ khuyên người khác về mặt giáo dục cũng như đạo đức, và so sánh với cuộc sống của cá nhân họ, -- thì sự liên hệ với gia đình, thân hữu, và đồng nghiệp nói chung thật là kinh khủng -- đấy là chưa nói đến đời sống sinh lý và cách tiêu xài của bản thân họ.

Một người sẽ tự hỏi không biết họ đã nói thật, và làm thế nào để phương thức của họ đứng vững với thời gian và tập quán. Thật ra họ cũng đem đến cho chúng ta những áng văn chương tuyệt đẹp, làm cho sự suy nghĩ của chúng ta nhạy bén hơn, nhưng đồng thời cũng góp phần trong sự đau khổ của nhân loại.

Theo thiển ý của tôi, những giáo sĩ thế tục cũng thất bại vì họ cũng trở nên quá dễ dãi và tự cao. Họ cũng thiếu sự cam kết về sự thay đổi bản thân, cũng như Tolstoy đã làm và thất bại. Nhưng lại có ảnh hưởng rất tốt đối với Gandhi và Martin Luther King.

Là một người Thái, tôi coi vị anh hùng dân tộc, Phya Anuman Rajadhon, người được hội UNESCO công nhận trong năm qua, là một nhà lãnh đạo trí thức, dù rằng ông ta không thông thái, hay nổi tiếng. Ông là người rất bình dị và khiêm tốn, chỉ tự xem mình là một người bình thường có thời gian để kính trọng mọi người, và khuyến khích mọi người trở nên hoàn hảo hơn cả chính ông ta.

Tôi nghĩ rằng khi mà chúng ta biết được giới hạn của chính mình và biết kính trọng người khác thì ít khi nào chúng ta đi sai. Chúng ta nên tìm cách phát triển cho chính bản thân cũng như xã hội dựa trên cách biết khen ngợi, sự hiểu biết về văn hóa của dân tộc mình -- luôn cả những phong tục về mặt tâm linh, kế đến là sự phát triển kinh tế sẽ không quá bị ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo, và mọi người không phân biệt giàu nghèo đều có thể sống hạnh phúc.

Mặc dầu, Phật giáo với chữ '' P '' hoa vẫn có thể mang ý nghĩa lệch lạc, có thể bị sử dụng để củng cố chế độ độc tài hoặc những hội đoàn thiếu đạo đức, nếu chúng ta có thể chỉ hướng đến tình thương đại đồng thì chúng ta sẽ đánh vần chữ Phật giáo với chữ '' p '' nhỏ. Vì vậy chúng ta hãy bắt chước nối gót theo đức Phật, các bạn công giáo thì nối gót theo đấng Christ, và các bạn Hồi giáo nên dâng cái ngã của họ cho Allah.

Luật thứ nhất trong phật giáo với chữ '' p '' nhỏ được hiểu như sau:

" Đừng thần tượng quá, đừng bám viú vào bất cứ giáo điều nào, dù là lý luận hay lý tương; dù đó là lý luận, hay lý tưởng của Phật giáo. Tất cả những phương thức suy nghĩ chỉ là phương tiện; chúng không phải là Chân Lý."

(Giới thứ nhất của dòng Tiep Hien ).

Có lẽ đây là điều đối nghịch nhất đối với những lời dạy có tính cách giáo điều.

Thầy Thích Nhất Hạnh, vị tu sĩ Phật giáo, người Việt Nam, viết: " Nếu bạn có một khẩu súng, bạn có thể bắn một người, hai, ba, năm người, nhưng nếu bạn có một lý tưởng và bám chặt vào đó, nghĩ rằng đây là Chân Lý, thì bạn có thể giết hàng triệu người... Hòa bình chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta không bám viú vào một quan điểm, khi chúng ta không mù quáng."

Một khi bạn hiểu rõ và thực tập điều nầy trong đời sống hằng ngày, thì lúc ấy bạn sẽ biết tán thưởng tầm quan trọng của những dị biệt tôn giáo và niềm tin.

Nếu chúng ta có lòng, thì nên hợp nhất những dị biệt và tìm cách để làm giảm đi đau khổ của đồng loại. Chúng ta không nên gom góp của cải trong khi bao triệu người đang đói. Đây không phải là những lý tưởng xa vời; nếu chúng ta thực tập, có thể mang lại kết quả khả quan cho sự công bình trong xã hội và là bước đầu cho việc kiến tạo hòa bình.

Nhưng muốn thực hiện điều nầy với Chính niệm, chúng ta phải theo lời Thầy Thích Nhất Hạnh, " không nên để mình bị phân tán và đừng đánh mất mình nơi hoàn cảnh xung quanh."

Chúng ta nên "thực tập thở để lấy lại quân bình cho cơ thể cũng như tinh thần, thực tập Chánh niệm, để phát triển sự chú tâm và hiểu biết."

Phương cách nầy đưa đến sự phát triển " không hai ", nơi đây một người có thể sống an lạc với chính mình và như vậy người đó mới có thể thực hiện được việc kiến tạo hòa bình trên thế giới.

Chúng ta nên nhấn mạnh sự liên tục "bên trong" và "bên ngoài", gọi thế giới là " cái ngã lớn của chúng ta " như vậy chúng ta mới có thể hăng hái lo lắng cho nó. Tôi hy vọng quan điểm nầy sẽ hướng dẫn chúng ta trong việc tìm sự công bình cho xã hội, và kiến tạo hòa bình.

Mỗi người trong chúng ta phải tự kiểm những hành động của chính mình trong những liên hệ đối với cộng đồng xã hội. Tôi tin tưởng quan điểm nầy rất lợi ích cho việc phát triển thân cũng như tâm -- đó là sự phát triển toàn diện nơi con người.

Với tôi, để tạo dựng sự hiểu biết, sự kính trọng giữa con người với nhau trong các dị biệt tôn giáo hay niềm tin, một người cần phải có gì khác hơn là lý tưởng. Tâm linh phải được phát triển, không bám víu vào lý tưởng.

Một người đã nói: " Vấn đề lớn của tôn giáo hiện nay là phải làm sao, ta vừa là chiến sĩ, vừa là người thần bí; nói khác đi, làm sao để kết hợp sự tỉnh thức bên trong với những công tác xã hội bên ngoài, và làm thế nào để tìm được con người thật của mình ở hai nơi nầy."

---o0o---

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/10/2011(Xem: 5564)
Từ vụ bộc khởi năm 2008 ở Tây Tạng, khu vực đã bị cô lập với các phóng viên Tây Phương, làm cho những người bên ngoài không thể biết những điều kiện ở đấy. Tuần rồi, tại nơi thường trú ở Hy Mã Lạp Sơn, McLeod Ganj, Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ngồi lại với phóng viên tạp chí Newsweek, Jerry Guo để đàm luận những gì đang xảy ra ở Tây Tạng, chính sách của Bắc Kinh, và chuyển động ở Tây Tạng.
24/10/2011(Xem: 3258)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo Phật.
07/10/2011(Xem: 8282)
Chúng ta đã và đang thấy trong kỷ nguyên hiện đại những sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực phát triển vật chất. Như một kết quả, có một sự cải thiện đáng kể trong đời sống của con người. Tuy thế, cùng lúc ấy, chúng ta cũng cảnh giác rằng sự phát triển vật chất đơn thuần không thể trả lời cho tất cả những ước mơ của nhân loại... Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
03/10/2011(Xem: 7967)
Tại sao ông quá quan tâm? [cười] Không, một cách nghiêm chỉnh, tôi cảm thấy rằng người Hoa Kỳ quan tâm bởi vì họ cởi mở. Họ có một nền giáo dục đã dạy họ tìm kiếm cho chính họ tại sao mọi thứ là như thế, trong một cung cách như thế. Những người cởi mở có khuynh hướng quan tâm đến Đạo Phật bởi vì Đức Phật khuyến khích họ khảo sát mọi vật - Ngài không chỉ ra lệnh họ tin tưởng.
21/09/2011(Xem: 13707)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 3823)
Bài viết này phác thảo những kết quả nghiên cứu được thực hiện vào năm 2000 về những đóng góp của các tổ chức Phật giáo vào phúc lợi xã hội ở Úc. Việc nghiên cứu này minh chứng rằng, Phật giáo Úc rõ ràng là tôn giáo nhập thế, không chỉ ở trong thực tiễn, mà còn xuất phát từ quan điểm các thành viên của những tổ chức Phật giáo, họ cho rằng sự thực hành như vậy luôn là điều quan yếu đối với những tổ chức Phật giáo của họ và không phải là một hiện tượng mới.
13/09/2011(Xem: 6166)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
10/09/2011(Xem: 3187)
Ngày nay nhân loại đang đứng trước vấn đề khủng hoảng môi sinh. Khủng hoảng môi sinh là sự ô nhiễm môi sinh do các phóng xạ, sự phân bạch, bụi bạch của thiên nhiên, nạn khai thác rừng, cháy rừng, giao thông vận tải quá tải, sự thiêu đốt, sự khai thác các nguồn năng lượng vô tội vạ, phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp nhẹ và nặng trong một nền kinh tế thị trường đầy lợi nhuận luôn biến động.
16/08/2011(Xem: 8314)
Khi Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng năm 1950, người ta hứa hẹn đem hiện đại đến một vương quốc phong kiến cô lập. Thay vì thế, nó đã đến một sự cai trị đè nén tôn giáo và văn hóa đã làm cho chính phủ Tây Tạng đi đến lưu vong, kể cả lĩnh tụ tối cao giáo quyền và thế quyền của Tây Tạng. Được khám phá như hóa thân của tu sĩ cao cấpTây Tạng thứ 14 vào lúc hai tuổi và đăng quang lúc bốn tuổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát đến Ấn Độ năm 1959 và chưa bao giờ trở lại. Sau bốn mươi lăm năm cố gắng bảo tồn một quốc gia không lĩnh thổ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang phải vật lộn với tương lai của Tây Tạng trong một cung cách thực tiển rất ngạc nhiên, một cách mà có thể có ngu ycơ khiến đồng bào của Ngài sự ủng hộ của quốc tế, và ngay cả gia đình của Ngài xa lánh.
15/08/2011(Xem: 3307)
Đức Phật là người chinh phục vĩ đại nhất. Ngài chinh phục thế giới bằng vũ khí của tình thương và chân lý
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567