Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Nói chuyện cùng Học sinh, Rajghat, 22 tháng mười hai 1952

16/07/201100:30(Xem: 3854)
03. Nói chuyện cùng Học sinh, Rajghat, 22 tháng mười hai 1952

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ HỌC HÀNH VÀ HIỂU BIẾT
ON LEARNING AND KNOWLEDGE
Lời dịch: Ông Không - 2009

Nói chuyện cùng Học sinh, Rajghat
22 tháng mười hai 1952

Bạn nhớ rằng chúng ta đang bàn về sợ hãi. Bây giờ, sợ hãi cũng không chịu trách nhiệm cho sự tích lũy của hiểu biết hay sao? Đây là một chủ đề khó hiểu, vì vậy chúng ta hãy xem thử liệu chúng ta có thể tìm hiểu nó rất cẩn thận và suy xét nó. Con người tích lũy hiểu biết và tôn thờ hiểu biết. Họ nghĩ rằng hiểu biết rất quan trọng trong sống – hiểu biết về điều gì đã xảy ra, hiểu biết về điều gì sẽ xảy ra, không chỉ là hiểu biết thuộc khoa học mà còn cả hiểu biết tạm gọi là tinh thần. Toàn sự tiến hành của tích lũy thông tin dần dần trở thành một sự việc mà chúng ta tôn thờ như hiểu biết. Điều đó cũng không phát sinh từ nền tảng của sợ hãi hay sao? Chúng ta cảm thấy rằng nếu chúng ta không biết, chúng ta sẽ bị mất hút, chúng ta sẽ không biết làm thế nào để điều khiển chính chúng ta, chúng ta sẽ không biết làm thế nào để cư xử. Vì vậy qua những trải nghiệm và những niềm tin của những người khác và qua những trải nghiệm riêng của chúng ta, qua hiểu biết sách vở, qua điều gì những người tiên tri đã nói, dần dần chúng ta thiết lập sự hiểu biết mà trở thành truyền thống; và đằng sau truyền thống đó, đằng sau hiểu biết đó, chúng ta ẩn náu. Chúng ta nghĩ hiểu biết này là cần thiết và nếu không có nó chúng ta sẽ bị mất hút; chúng ta sẽ không biết phải làm gì.
Bây giờ, chúng ta có ý gì qua từ ngữ hiểu biết? Bạn biết cái gì? Bạn biết cái gì khi bạn thực sự suy nghĩ về hiểu biết mà bạn đã tích lũy? Nó là gì? Tại mức độ nào đó hiểu biết có quan trọng, như trong khoa học hay kỹ thuật, nhưng ra khỏi đó chúng ta biết cái gì? Bạn có khi nào suy nghĩ về qui trình tích lũy hiểu biết này? Tại sao bạn đậu những kỳ thi? Tại sao bạn học hành? Nó có cần thiết tại những mức độ nào đó, bởi vì nếu không có hiểu biết về toán học, địa lý, lịch sử, làm thế nào người ta có thể là một kỹ sư hay một người khoa học? Tất cả mọi liên hệ xã hội đều được thiết lập trên hiểu biết như thế, và chúng ta sẽ không thể kiếm sống nếu không có nó. Loại hiểu biết đó là cần thiết, nhưng ra khỏi đó, chúng ta biết gì?

Hiểu biết là cần thiết tại những mức độ nào đó thuộc sống của chúng ta với mục đích để sinh tồn. Nhưng ra khỏi đó, bản chất của hiểu biết là gì? Chúng ta có ý gì khi chúng ta nói rằng hiểu biết là cần thiết để tìm ra Thượng đế, hay hiểu biết là cần thiết để hiểu rõ về chính mình, hay hiểu biết là cần thiết để tìm ra một phương cách vượt khỏi tất cả những hỗn loạn của sống? Ở đây, chúng ta có ý nói hiểu biết như trải nghiệm. Chúng ta trải nghiệm cái gì? Chúng ta biết cái gì? Hiểu biết này không được sử dụng bởi cái ngã, bởi ‘cái tôi’, để tự-củng cố chính nó hay sao? Ví dụ, tôi đã đạt được một vị trí xã hội nào đó. Trải nghiệm đó, sự thành công của nó, danh vọng của nó, uy quyền của nó, trao tặng tôi một ý thức nào đó của an toàn, của thanh thản; vì vậy hiểu biết về sự thành công của tôi, hiểu biết về có quyền hành của tôi và về vị trí của tôi, hiểu biết rằng tôi là người nào đó, củng cố ‘cái tôi’, phải không?

Vậy là chúng ta sử dụng hiểu biết như một phương tiện để củng cố cái ngã, ‘cái tôi’. Bạn không nhận thấy những học giả hay người cha hay người mẹ hay người thầy của bạn, họ đã tự đắc về hiểu biết đến chừng nào hay sao, hiểu biết đã cho ý thức của sự bành trướng cái tôi, ‘tôi biết và bạn không biết; tôi đã trải nghiệm nhiều và bạn không’ đến chừng nào, hay sao? Dần dần, hiểu biết mà thuần túy là thông tin được sử dụng cho sự kiêu hãnh, và trở thành thuốc bổ, lương thực, chất dinh dưỡng cho cái ngã, cho ‘cái tôi’. Bởi vì cái ngã không thể tồn tại nếu không có hình thức lệ thuộc ăn bám nào đó. Người khoa học sử dụng hiểu biết của anh ấy để nuôi dưỡng sự kiêu hãnh của anh ấy, để cảm thấy rằng anh ấy là người nào đó; người học thức uyên bác cũng vậy; người giáo viên cũng vậy; những cha mẹ cũng vậy; những vị đạo sư cũng vậy. Tất cả họ đều muốn là người nào đó trong xã hội này, thế là họ sử dụng hiểu biết như một phương tiện để thành tựu sự ham muốn của họ; và khi bạn tìm hiểu, đi ra phía sau những từ ngữ của họ, có gì? Họ biết cái gì? Họ chỉ biết những quyển sách chứa đựng cái gì; hay, họ biết cái gì họ đã trải nghiệm, những trải nghiệm lệ thuộc vào hậu cảnh thuộc tình trạng bị quy định của họ. Vậy là hầu hết chúng ta đều bị nhét đầy những từ ngữ, thông tin, mà chúng ta gọi là hiểu biết, và nếu không có nó chúng ta bị mất hút. Vậy là có sợ hãi đang rình mò ngay đằng sau bức màn của những từ ngữ, bức màn của thông tin, và cái này chúng ta thay đổi thành hiểu biết, như một phương tiện thuộc nghề nghiệp của chúng ta trong sống.

Nơi nào có sợ hãi, không có tình yêu, và hiểu biết mà không có tình yêu hủy diệt con người. Đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới tại thời điểm hiện nay. Ví dụ, người ta có hiểu biết của làm thế nào để cung cấp lương thực cho những con người khắp thế giới, nhưng họ lại không đang làm việc này. Họ biết làm thế nào để lo ăn uống, lo quần áo, lo chỗ ở, nhưng họ không đang làm nó bởi vì mỗi nhóm người bị phân chia bởi những theo đuổi ích kỷ, thuộc quốc gia của họ. Nếu họ thực sự có sự ham muốn kết thúc chiến tranh, họ có thể thực hiện được, nhưng họ không đang làm nó bởi vì cùng lý do. Vì vậy hiểu biết mà không có tình yêu không có ý nghĩa gì cả. Nó chỉ là phương tiện của hủy diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ điều này, chỉ đậu những kỳ thi hay có một vị trí hay thanh danh hay quyền hành dẫn đến sự thoái hóa, sự hư hỏng, sự suy giảm từ từ nhân phẩm của con người. Điều gì quan trọng không chỉ là phải có hiểu biết tại những mức độ nào đó – mà là cần thiết – nhưng còn phải vun quén cảm thấy này, thấy bằng cách nào hiểu biết được sử dụng cho sự ích kỷ, cho những mục đích của cái tôi. Hãy quan sát bằng cách nào trải nghiệm đã được sử dụng như một phương tiện của tự-bành trướng, như một phương tiện cho uy quyền, cho thanh danh của một người. Bạn quan sát, và bạn sẽ thấy những người lớn tuổi bám vào sự thành công của họ, bám vào vị trí của họ chặt chẽ đến chừng nào. Họ muốn xây một cái tổ cho chính họ để cho họ có quyền lực, để cho họ có thanh danh, vị trí, và uy quyền; và họ tồn tại bởi vì mỗi người chúng ta muốn cùng sự việc, muốn là người nào đó. Bạn không muốn là bất kỳ điều gì bạn là, nhưng bạn muốn là người nào đó.

Có một khác biệt giữa đang là và đang muốn là. Sự ham muốn để là tiếp tục qua hiểu biết mà được sử dụng cho tự-mở rộng, cho quyền hành, vị trí, thanh danh. Vì vậy rất quan trọng cho tất cả chúng ta, cho bạn và cho tôi bởi vì chúng ta đang chín chắn, phải thấy tất cả những vấn đề này và thâm nhập vào chúng, phải thấy rằng chúng ta không kính trọng một con người chỉ bởi vì anh ấy có một tước hiệu, một danh tính, một vị trí. Chúng ta chẳng biết bao nhiêu. Chúng ta có lẽ có nhiều hiểu biết của những quyển sách, nhưng chẳng bao nhiêu người có trải nghiệm trực tiếp về bất kỳ sự việc gì. Chính là trải nghiệm trực tiếp về Chân lý, về Thượng đế, mới có tầm quan trọng nhất. Và muốn được như vậy phải có tình yêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 6645)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4937)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51631)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9280)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20805)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7777)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12128)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15124)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3967)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567