Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Bombay, 19 tháng hai 1950

12/07/201100:50(Xem: 3314)
06. Bombay, 19 tháng hai 1950

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Bombay, 19 tháng hai 1950

Người hỏi: Qua những hoạt động như Liên Hiệp Quốc và Hội nghị Hòa Bình Thế giới, con người khắp thế giới đang thực hiện một nỗ lực cá thể và tập thể để ngăn ngừa một chiến tranh thế giới lần thứ ba. Nỗ lực của ông khác biệt với nỗ lực của họ như thế nào, và ông hy vọng đạt được bất kỳ những kết quả đáng kể nào không? Chiến tranh có thể được ngăn ngừa?

Krishnamurti: Đầu tiên chúng ta hãy giải quyết những sự kiện rõ ràng và sau đó thâm nhập sâu thêm nữa vào vấn đề. Chúng ta có thể ngăn ngừa chiến tranh hay không? Bạn nghĩ gì? Con người nhất quyết tàn sát lẫn nhau; bạn nhất quyết tàn sát người hàng xóm của bạn – có lẽ, không bằng những cây kiếm, nhưng bạn đang trục lợi họ, chính trị, tôn giáo, và kinh tế. Có những phân chia ngôn ngữ, cộng đồng, xã hội, và bạn không đang hối hả thực hiện tất cả điều này hay sao? Bạn không muốn ngăn ngừa chiến tranh bởi vì một số người các bạn sắp sửa kiếm được tiền bạc. Những người xảo quyệt sắp sửa kiếm được tiền bạc, và những người khờ khạo cũng sẽ muốn kiếm được tiền bạc nhiều thêm. Vì Chúa, hãy thấy sự xấu xa, sự vô lương tâm của nó! Khi bạn có một mục đích đã sắp đặt để kiếm được bằng bất kỳ giá nào, kết quả là điều không tránh khỏi. Chiến tranh thế giới lần thứ ba bắt nguồn từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt nguồn từ lần thứ nhất, và lần thứ nhất là kết quả của những chiến tranh trước. Nếu bạn không chấm dứt nguyên nhân, chỉ chắp vá những triệu chứng chẳng có ý nghĩa gì cả. Một trong những nguyên nhân của chiến tranh là chủ nghĩa quốc gia, những chính phủ cầm quyền, và mọi điều xấu xa theo cùng chúng – quyền hành, thanh danh, vị trí, và uy quyền. Nhưng hầu hết chúng ta đều không muốn chấm dứt chiến tranh bởi vì sống của chúng ta không trọn vẹn, toàn tồn tại của chúng ta là một bãi chiến trường, một xung đột vô tận, không những với người vợ của chúng ta, người chồng của chúng ta, người hàng xóm của chúng ta mà còn cả với chính chúng ta – đấu tranh liên tục để trở thành cái gì đó. Đó là sống của chúng ta, trong nó chiến tranh và bom khinh khí chỉ là những chiếu rọi hoành tráng và bạo lực. Chừng nào chúng ta còn không hiểu rõ toàn ý nghĩa của sự tồn tại của chúng ta và tạo ra một thay đổi cơ bản, không thể có hòa bình trong thế giới.

Bây giờ vấn đề thứ hai còn khó khăn hơn nhiều, còn đòi hỏi sự chú ý của bạn hơn nhiều – mà không có nghĩa rằng vấn đề thứ nhất là không quan trọng. Sở dĩ hầu hết chúng ta đều không chú ý nhiều lắm đến sự thay đổi của chính chúng ta do bởi chúng ta không muốn được thay đổi. Chúng ta mãn nguyện và không muốn bị quấy rầy. Chúng ta hài lòng khi chúng ta đang sống như chúng ta là hiện nay. Và đó là lý do tại sao chúng ta đang gửi con cái của chúng ta đến chiến tranh, tại sao chúng ta phải có sự huấn luyện quân sự. Tất cả các bạn đều muốn cất giữ những tài khoản ngân hàng của các bạn, bám chặt vào tài sản của các bạn – tất cả đều nhân danh không-bạo lực, nhân danh Thượng đế và hòa bình, mà là hành động bậy bạ của tinh thần tôn giáo. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ hòa bình? Bạn nói Liên Hiệp Quốc đang cố gắng thiết lập hòa bình bằng cách tổ chức những quốc gia thành viên của nó, mà có nghĩa nó đang cân bằng quyền lực. Đó là sự theo đuổi hòa bình hay sao?

Rồi thì còn có sự tập họp của những cá thể quanh một ý tưởng nào đó của điều gì họ nghĩ là hòa bình. Đó là những cá thể phản đối chiến tranh tùy theo hoặc là sự tin tưởng về đạo đức của anh ấy hoặc là những ý tưởng về kinh tế của anh ấy. Chúng ta đặt hòa bình hoặc là trên một nền tảng thuộc lý trí hoặc là trên một nền tảng thuộc đạo đức. Chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì chiến tranh không gây lợi lộc, mà là lý do thuộc kinh tế; hay chúng ta nói chúng ta phải có hòa bình bởi vì nó là vô đạo đức khi giết chóc, nó là vô tôn giáo, con người có tánh thiện ngay trong bản chất của anh ấy và không bị hủy diệt, và vân vân. Vậy là có tất cả những giải thích này của lý do tại sao chúng ta không nên có chiến tranh; những lý do thuộc đạo đức, nhân đạo, lương tâm, hay tôn giáo biện minh cho hòa bình ở phía này và những lý do thuộc xã hội, kinh tế, lý trí ở phía kia.

Bây giờ, hòa bình là vấn đề của cái trí? Nếu bạn có một lý do, một động cơ cho hòa bình, điều đó sẽ mang lại hòa bình? Nếu tôi kiềm chế giết chết bạn bởi vì tôi nghĩ nó là vô đạo đức, đó là hòa bình hay sao? Nếu vì những lý do kinh tế tôi không tham gia quân đội bởi vì tôi nghĩ nó không sinh ra lợi lộc, đó là hòa bình hay sao? Nếu tôi đặt nền tảng hòa bình của tôi trên một động cơ, trên một lý do, điều đó có thể mang lại hòa bình hay sao? Nếu tôi thương yêu bạn bởi vì bạn đẹp đẽ, bởi vì bạn làm thỏa mãn tôi phần thân xác, đó là tình yêu hay sao? Điều này rất quan trọng. Hầu hết chúng ta đã vun quén những cái trí của chúng ta, chúng ta sử dụng trí năng quá nhiều, đến độ chúng ta muốn tìm ra những lý do cho việc không giết chóc, những lý do gây ra sự hủy diệt thảm khốc của bom nguyên tử, những tranh cãi thuộc kinh tế và đạo đức cho hòa bình, và vân vân; và chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng có những lý do cho việc không giết chóc nhiều bao nhiêu, càng có hòa bình nhiều bấy nhiêu. Nhưng liệu bạn có thể có hòa bình qua một lý do? Hòa bình có thể chuyển thành một nguyên nhân hay sao? Chính nguyên nhân không là bộ phận của xung đột hay sao? Liệu không-bạo lực, hòa bình là một lý tưởng phải được theo đuổi và cuối cùng đạt được qua một tiến trình từ từ của tiến hóa hay sao? Tất cả những điều này là những lý do, những giải thích duy lý, phải không?

Vì vậy nếu chúng ta chín chắn, câu hỏi của chúng ta thực sự là liệu hòa bình là một kết quả, tác động của một nguyên nhân, hay hòa bình là một trạng thái của đang là, không phải trong tương lai hay trong quá khứ nhưng ngay lúc này. Nếu hòa bình, nếu không-bạo lực là một lý tưởng, chắc chắn nó thể hiện rằng thực ra bạn là bạo lực: bạn không hòa bình. Bạn ao ước là hòa bình, và bạn nêu những lý do tại sao bạn nên là hòa bình; và, bởi vì được thỏa mãn với những lý do, bạn giữ nguyên tình trạng bạo lực. Thực ra, một con người là hòa bình, một con người tìm kiếm sự cần thiết của trạng thái hòa bình, không có lý tưởng của hòa bình. Anh ta không tạo ra một nỗ lực để trở nên hòa bình nhưng thấy sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Chỉ con người không thấy sự quan trọng, sự cần thiết, sự thật của là hòa bình, mới chuyển không-bạo lực thành một lý tưởng – mà thực sự chỉ là một trì hoãn của hòa bình. Đó là điều gì các bạn đang làm, tất cả các bạn đang tôn thờ lý tưởng của hòa bình và trong khoảng giữa thụ hưởng bạo lực. Các bạn cười, các bạn dễ dàng vui đùa. Nó là một giải trí khác; và khi các bạn rời khỏi sự gặp gỡ này, các bạn sẽ tiếp tục chính xác như trước kia! Các bạn mong đợi có hòa bình bởi những tranh luận hời hợt và nói chuyện ngẫu nhiên? Bạn sẽ không có hòa bình bởi vì bạn không muốn hòa bình; bạn không hứng thú nó, bạn không thấy sự quan trọng, sự cần thiết của có hòa bình ngay lúc này, không phải ngày mai. Chỉ khi nào bạn không còn lý do cho hòa bình, bạn sẽ có hòa bình.

Chừng nào bạn còn có một lý do để sống, bạn không đang sống, phải không? Bạn sống chỉ khi nào không có lý do, không nguyên nhân – bạn chỉ sống. Tương tự, chừng nào bạn còn có lý do cho hòa bình, bạn sẽ không có hòa bình. Một cái trí sáng chế một lý do cho hòa bình đang ở trong xung đột, và một cái trí như thế sẽ tạo ra hỗn loạn và xung đột trong thế giới. Chỉ suy nghĩ ra, và bạn sẽ thấy. Làm thế nào một cái trí sáng chế những lý do cho hòa bình có thể là hòa bình? Bạn có thể có những lý lẽ biện hộ và phản bác rất khôn khéo, nhưng chính cấu trúc của cái trí không được đặt nền tảng trên bạo lực hay sao? Cái trí là kết quả của thời gian, của ngày hôm qua, và nó luôn luôn xung đột với hiện tại; nhưng con người là hòa bình ngay lúc này không có lý do cho nó. Với con người hòa bình, không có động cơ cho hòa bình. Quảng đại có một động cơ hay sao? Khi bạn quảng đại có một động cơ, đó là quảng đại à? Khi một người từ bỏ thế giới vì mục đích đạt được Thượng đế, vì mục đích đạt được điều gì đó to tát hơn, đó là sự từ bỏ hay sao? Nếu tôi từ bỏ cái này với mục đích tìm được cái kia, tôi có thực sự từ bỏ bất kỳ cái gì hay không? Nếu tôi được hòa bình vì những lý do khác nhau, tôi đã tìm được hòa bình à?

Vậy là, hòa bình không là một việc vượt khỏi cái trí và những sáng chế của cái trí hay sao? Hầu hết chúng ta, hầu hết những con người tôn giáo cùng những tổ chức của họ, đến hòa bình qua lý do, qua kỷ luật, qua tuân phục, bởi vì không có trực nhận của sự cần thiết, sự thật của là hòa bình. Hòa bình, trạng thái của hòa bình đó, không là trạng thái trì trệ; trái lại, nó là một trạng thái năng động nhất. Nhưng cái trí chỉ có thể biết được hoạt động thuộc sáng chế riêng của nó, mà là tư tưởng; và tư tưởng không bao giờ có thể là hòa bình; tư tưởng là đau khổ; tư tưởng là xung đột. Vì chúng ta chỉ biết phiền muộn và đau khổ, chúng ta cố gắng tìm ra những phương cách và phương tiện để vượt khỏi nó, và bất kỳ điều gì cái trí sáng chế chỉ gia tăng thêm nữa đau khổ riêng của nó, xung đột riêng của nó, đối kháng riêng của nó. Bạn sẽ nói rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ hiểu rõ điều này, rằng chẳng có bao nhiêu người sẽ mãi mãi là hòa bình trong ý nghĩa đúng đắn của từ ngữ đó. Tại sao bạn nói như thế? Không phải bởi vì nó là một tẩu thoát thuận tiện cho bạn hay sao? Bạn nói rằng hòa bình không bao giờ có thể đạt được trong cách tôi đang trình bày; nó không thể xảy ra được. Vì vậy bạn phải có những lý do cho hòa bình; bạn phải có những tổ chức cho hòa bình; bạn phải có sự tuyên truyền khôn khéo cho hòa bình. Nhưng chắc chắn tất cả những phương pháp đó chỉ là sự trì hoãn của hòa bình.

Chỉ khi nào bạn tiếp xúc trực tiếp cùng vấn đề, khi bạn thấy rằng nếu không có hòa bình ngày hôm nay bạn không thể có hòa bình ngày mai, khi bạn không có lý do cho hòa bình nhưng thực sự thấy sự thật rằng nếu không có hòa bình sống không thể xảy ra được; sáng tạo không thể xảy ra được, rằng nếu không có hòa bình không thể có ý thức của hạnh phúc – chỉ khi bạn thấy sự thật của điều đó bạn sẽ có hòa bình. Vậy là bạn sẽ có hòa bình nếu không có bất kỳ tổ chức nào cho hòa bình. Muốn có điều đó bạn phải thật mong manh, bạn phải khẩn thiết cho hòa bình bằng tất cả tâm hồn của bạn, bạn phải tự tìm ra sự thật của nó cho chính bạn, không qua những tổ chức, không qua sự tuyên truyền, không qua những lý lẽ khôn ngoan để ủng hộ hòa bình và phản đối chiến tranh. Hòa bình không là sự phủ nhận của chiến tranh. Hòa bình là một trạng thái của đang là trong đó tất cả những xung đột và tất cả những vấn đề đã kết thúc; nó không là một lý thuyết, không là một lý tưởng sẽ đạt được sau mười hóa thân, mười năm, mười ngày. Chừng nào cái trí còn không hiểu rõ hoạt động riêng của nó, nó sẽ tạo ra đau khổ nhiều hơn; và sự hiểu rõ về cái trí là sự khởi đầu của hòa bình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 6645)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4937)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51623)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9280)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20804)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7777)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12127)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15120)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3967)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567