Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vươn ra biển lớn

09/04/201312:39(Xem: 4939)
Vươn ra biển lớn

Vươn ra biển lớn

Thích Hạnh Bình

Sau sự kiện Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO và sự kiện tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14, báo điện tử: w.w.w.tuoitre.com.vn có mở diễn đàn công khai thảo luận với chủ đề: “Vươn ra biển lớn”. Trong đó tôi tâm đắc nhất là bài “Tầm vóc truyền trưởng, tầm vóc dân tộc” của Luật sư Lê Công Định và bài “Phải biết tự ty dân tôc” của Lưu Đình Long.

Nội dung hai bài này, mỗi tác giả trình bày theo ý kiến riêng của mình, tuy hai cách nhìn khác nhau, nhưng có cùng chung chí hướng: “vì sự phát triển của đất nước, vì một dân tộc hùng mạnh trong tương lai”. Luật sư Lê Công Định với góc nhìn về mặt tổ chức, nhấn mạnh vai trò của người lãnh đạo, tức vị truyền trưởng, với nhiệm vụ lèo lái con truyền ra khơi. Ngược lại, tác giả Lưu Đình Long với cái nhìn của ngừơi dân, kêu gọi mọi người dân Việt phải có lòng tự tôn và tự ái dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ Việt nam. Theo tôi, ý kiến của hai tác giả đều phù họp với hiện tình đất nước cũng như đồng thuận với trào lưu phát triển như hiện nay. Ở đây, tôi chỉ thêm một ý nhỏ, nếu như cả hai ý kiến này cùng thực hiện thì sự kiện “vươn ra biển lớn” sẽ tốt hơn, vì con thuyền đã có vị thuyền trưởng vừa thông minh lại vừa dũng cảm. Bên cạnh đó, mọi thành viên trên thuyền ai cũng đều có ý thức muốn thành công cho sự kiện ra khơi. ‘Nhất hô bách ứng’ thì sự kiện khó khăn nào lại không thành; ‘Thuận vợ thuận chồng – tác biển Đông cũng cạn’ thì việc ra khơi có khó khăn gi ? nhưng chỉ sợ trên hô mà dưới thi không ứng, hoặc dưới ứng mà trên chẳng hô mà thôi.!

Dù gì đi nữa thuyền của chúng ta cũng bắt đầu nhổ neo vươn ra biển lớn. Do đó, là thuyền trưởng hay thuyền viên đều cần phải ý thức rằng, trong chuyến hải trình này không đơn giản chút nào, phía trước nhiều hiểm nguy đang chờ chực, phong ba bão tố đang rình rập, nếu thuyền có bề gì thì không một ai trên thuyền có thể bảo tồn, dù là thuyền trưởng hay thuyền viên. Do đó, sự tồn tại của con thuyền đều tùy thuộc vào không chỉ có sự đồng tâm nhất trí mà còn cần sự khôn ngoan của mọi người, nhất là người thuyền trưởng. Với ý thức đó, tôi tin rằng, thuyền chúng ta ra khơi sẽ an toàn và đến đích.

Thật sự mà nói, kiến thức về tổ chức thương mại thế giới (WTO) của tôi có giới hạn, biết nó qua sự giới thiêu qua phương tiện thông tin đại chúng. WTO hiện đã có 149 nước tham gia và Việt nam là thành viên thứ 150. Nước nào tham gia tổ chức này, trước nhất phải tuân thủ chấp hành một luật lệ chung của tổ chức này. Ngoài ra, còn phải thông qua thương lượng đàm phán riêng, theo yêu cầu của từng quốc gia thành viên... . Điều đó có nghĩa rằng, Việt nam gia nhập tổ chức WTO phải chấp hành và thực thi những cam kết với tổ chức này.

Bài viết này, tôi không bàn đến lãnh vực chuyên môn về kinh tế, tôi chỉ muợn chủ đề này bàn đến một lãnh vực khác. Lãnh vực đó, không những chỉ gắn liền với đời sống tâm linh của riêng tôi mà còn liên quan đến nhiều chục triệu người dân Việt nam theo đạo Phật. Vấn đề được đặc ra ở đây là: Sau khi Việt nam trở thành thành viên của tổ chức WTO, Phật giáo Việt nam có chịu ảnh hưởng gì từ sự gia nhập này không ? Tất nhiên, tùy theo góc độ và cái nhìn của từng người sẽ có khác nhau về câu trả lời. Nếu đứng từ góc độ của một nhà tu hành, xa lánh trần tục, chuyên tâm tu tập thiền định thì vấn đề Việt nam có vào WTO hay không cũng không ảnh hưởng gì đến đời sống của họ, nhưng nếu như là người lãnh đạo Phật giáo, có ý nguyện hoằng dương chánh pháp, đem Phật pháp vào xã hội, ắt hẳn sự kiện Việt nam gia nhập tổ chức này có ảnh huởng rất lớn, vì kinh tế phát triển, nó sẽ là động lực thay đổi môi trường sống của con người, là nhân tố kích thích con người có nhu cầu cao hơn, cách suy nghĩ cũng khác đi. Phật giáo muốn đáp ứng cho con người trong xã hội đó, cần phải thay đổi những gì không còn phù họp. Như vậy, sự kiện Việt nam gia nhập WTO có ảnh hưởng đến Phật giáo, có thể là chậm hay mau, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào cách hành xử của Phật giáo.

Lý thuyết Duyên khởi mà đức Phật đã chứng ngộ dưới cội cây Bồ đề đã lý giải điều đó. ‘Cái này có cho nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh” có nghĩa là, khi Việt nam gia nhập tổ chức WTO, thì bắt buột nhà nước Việt nam phải chấp nhận những nguyên tắc hoạt chung của tổ chức này. ‘Cái này sinh cho nên cái kia sinh’, có nghĩa là khi Việt nam thực thi những hiệp ước chung và riêng này, nó là cơ sở thúc đẩy cho xã hội Việt Nam phát triển theo chiều hướng mới, công bằng và tự do hơn, trong đó có cả những vấn đề liên quan đến Tôn giáo, cũng sẽ họat động theo nguyên tắc cạnh tranh này. Tôn giáo nào đáp ứng được nhu cầu của người dân thì tôn giáo ấy sẽ tồn tại và phát triển, và ngược lại. Đây là điểm chúng ta cần lưu ý.

Trước tình hình đó, cách hành xử của nhà nước Việt nam và cách hoạch định của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt nam nghĩ gì về sự hội nhập này ? Phải chăng chúng ta cho rằng, Phật giáo là một hoạt động tôn giáo độc lập, không liên quan gì đến sự kiện gia nhập tổ chức WTO? Theo tôi, nếu suy nghĩ như vậy, chúng ta sẽ vướng phải một vài vấn đề mâu thuẫn khi chúng ta muốn bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc, thực thi tinh thần nhập thế, truyền bá Phật pháp. Điều đó có nghĩa là sinh hoạt của Phật giáo luôn gắng liền với xã hội, với đời sống con người. Như vậy, nếu như con người là đối tượng giáo dục của Phật giáo, xã hội là môi trường để thực thi tinh thần nhập thế, khi xã hội thay đổi thì Phật giáo không thể không thay đổi cách nhận thức và phương pháp ứng xử để thích nghi với xã hội đó.

Nếu như một nửa hay hơn một nữa dân số VN là người theo đạo Phật, thì quan điểm và cách giáo dục của đạo Phật có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp thúc đẩy xã hội phát triển. Theo tôi, đạo Phật với phương châm ‘lấy trí tuệ làm sự nghiệp’, tôn trọng sự hiểu biết của con người, nó chính là nhân tố tốt nhất để thức đẩy xã hội phát triển. Trên nguyên tắc chung là như thế, nhưng muốn thực thi được tinh thần này, điều đó còn tùy thuộc vào các sứ giả của Như Lai có giới thiệu đúng tinh thần giáo dục của đức Phật hay không.

Trước sự kiện lịch sử trọng đại này, Phật giáo VN cần thể hiện vai trò tích cực hơn để thể hiện tinh thần nhập thế của mình, phu hop voi su phat trien cua dat nuoc va xu the hoi nhap cua thoi dai trong giai doan hien nay. Do do, ngang qua sự kiện Việt nam gia nhập tổ chức WTO, nó dự báo cho chúng ta một số vấn đề cần lưu ý. Thu nhất, chính sách quản lý xã hội của nhà nước Việt nam sẽ có những chuyển biến theo chiều hứơng tích cực, tất cả mọi vấn đề sẽ được luật hóa . Thứ hai, Việt Nam từng bước tiếp cận các thị trường kinh tế thế giới, cũng có nghĩa là, các nền kinh tế thế giới cũng sẽ bước vào thị trường Việt Nam. Điều đó không đơn thuần chỉ là giao lưu về mậu dịch, mà còn giao lưu mọi mặt trong đời sống xã hội, đó là một qui trình tất yếu. Từ góc độ này, vấn đề văn hóa giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó sẽ tác động trực tiếp đến thượng tần kiến trúc đến hạ tầng cơ sở theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Cũng từ đó, xã hội Việt nam sẽ hình thành một số vấn đề mới, xuất phát từ sự hội nhập. Vì vậy, Phật giáo muốn tồn tại và phát triển trong xã hội mới đó, cần phải cải cách, trước nhất là mặt cơ cấu nhân sự, phải là những người có khả năng, không những chỉ có đức mà còn phải có tài, từ những con người này họ mới mạnh dạn tiến hành cải cách các mặt họat động không còn phù họp, trong đó tác giáo đào tạo và nghiên cứu luôn luôn giữ vai trò then chốt, định hướng cho sự phát triển của Giáo Hội, có như vậy, Phật giáo Việt nam mới đủ sức đảm đương giải quyết những Phật sự mà xã hội đang và sẽ đặt ra.

Trong quá khứ, nếu như Phật giáo được cộng tồn cộng sinh với dân tộc VN vì Phật giáo đã làm tròn bổn phận trách nhiệm của mình, sáng suốt đề ra những phương giải quyết thích nghi với nhu cầu xã hội trước đây. Nhưng từ đây trở về sau, Việt nam là một đất nước có hòan cảnh xã hội mới, con người mới, suy nghĩ mới, nếu Phật giáo không đáp ứng được các nhu cầu xã hội đó, có thái độ bảo thủ thì Phật giáo có nguy cơ đánh mất vai trò của mình trong lòng dân tộc. Sự kiện Phật giáo Nam Hàn là một điển hình cụ thể.

Sự kiện Việt nam gia nhập vào thị trường thương mại thế giới là sự kiện mang tích lịch sử, đánh dấu sự “ra đi” của một nền kinh thế tập trung chậm phát triển thay vào đó một nền kinh tế tự do cạnh tranh trong bình đẳng. Khi đã nói cạnh tranh thì cũng bao hàm ý nghĩa rủi ro, nhưng không vì sợ rủi ro mà chúng ta ngăn cản bước tiến của đất nước. Trước sự kiện hội nhập này, nó co ảnh hưởng rất lớn và có thể nói là tòan diện đến xã hội Việt Nam, sự nâng cao về đời sống kinh tế vật chất, sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật sẽ la yếu tố làm thay đổi toàn bộ lối suy tư và cách làm việc ở thế hệ trẻ. Nếu Phật giáo không nhìn thấy vấn đề này, và kiệp thời đào tạo một thế hệ kế thừa đầy đủ cả hai mat: kiến thức Phật học và kiến thức xã hội, thì đó là nguy cơ cho sự lùi bước của Phật giáo Việt Nam. Theo tôi kiến thức khoa học, đời sống vật chất cao không làm cản trở choc ho sự phát triển Phật giáo, không phải là nhân tố xấu cho đời sống tâm linh mà nó còn là phương tiện đắc lực cho sự phát triển Phật giáo, cho sự tu tập, nó trở thành vật chướng ngại cho phát triển Phật giáo Việt nam, cho những người tu tập, khi nào chúng bị lợi dụng hoặc sử dụng chúng không phù họp.

Nghĩ cho cùng, ai sinh ra đời cũng hai bàn tay trắng, lãnh thổ nào cũng bắt nguồn từ mảnh đất hoang sơ, nếu có khác đi chăng nữa cũng chỉ là vóc dáng của con người cao hay thấp, da trắng hay da đen, vùng đất bùn lầy hay khô cứng, khí hậu nóng hay lạnh. Nhưng có một điều khác hẳn giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa đất nước này với đất nước khác là, những con người sống trong đó, sau quá trình sống, họ rút tỉa được gì từ mảnh đất mà họ sống, từ con người mà họ tiếp xúc, từ bầu không khí nóng lạnh đó và họ phải suy nghĩ gì làm gì trong môi trường sống đó. Sự hiểu biết và thái độ sẵn sàng điều chỉnh mình cho phù họp với thiên nhiên và xã hội mới là yếu tố cơ bản để cải thiện đời sống chính mình và xã hội. Cũng vậy, khi Phật giáo từ Ấn độ truyền đến Việt Nam cũng không mang theo đồng tiền cắt bạc nào, nếu có đi chăng chỉ là mấy quyển kinh Phật, một bầu nhiệt huyết, một trái tim thương yêu và một khối óc thông thái. Vốn liếng chỉ chừng ấy mà ngày nay Phật giáo ở Việt nam đã trở thành một tôn giáo của dân tộc. Với công sức của thầy tổ cha ông của chúng ta dày công xây dựng đến thế, lẽ nào hôm nay thế hệ trẻ của chúng ta lại vô tình hay cố ý chấp nhận làm công việc “Cha làm thầy con bán sách” ?

Dẫu rằng biển khơi mênh mông và không đơn thuần chỉ có sóng to gió lớn, còn chứa đầy yếu tố bất ngờ và nguy hiểm khác, nhưng tôi vẫn tin rằng, đất nước Việt nam dù có phát triển thay đổi như thế nào đi nữa, sự phát triển đó không đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc, Phật giáo Việt nam vẫn có người đủ đức đủ tài để lèo lái con thuyền cùng đất nước cùng dân tộc vươn ra biển lớn

Đài Bắc ngày 28/12/06.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8085)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16245)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12310)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19691)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4395)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4279)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4934)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4148)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4156)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11414)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567