Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Đạo Phật Cho Nhân Loại

01/01/201108:59(Xem: 7480)
19. Đạo Phật Cho Nhân Loại

ÐẠO PHẬT CHO NHÂN LOẠI

Tôn giáo này có thể được thực hành hoặc là nơi cuộc sống thế tục hoặc là viễn ly.

Một số người tin rằng Phật giáo là một hệ thống giáo lý qúa cao siêu và vi diệu mà những ngươì nam nữ bình thường trong thế giới của chúng ta không thể hành theo được. Và họ cũng quan niệm rằng người ta muốn trở thành một Phật tử thuần thành chân chánh thì anh ta phải xa lìa thế gian này để trú ẩn vào một nơi tự viện, hoặc một vài nơi yên tịnh nào đó để tu học.

Ðây là một quan niệm sai lầm đáng buồn rõ ràng là do sự thiếu hiểu biết về lời dạy của Ðức Phật. Một số lại vội vàng đi đến một kết luận hấp tấp và sai lạc như thế là do kết quả chỉ nghe người ta nói hoặc đọc cẩu thả, lấy lệ một tác phẩm Phật giáo do một số tác giả viết, mà những người này do vì không hiểu vấn đề trên mọi phương diện của nó,cho nên chỉ đưa ra một quan điểm phiến diện và hời hợt thiên vị về vấn đề đó. Giáo pháp của Ðức Phật không chỉ dành riêng cho giới cư sĩ tại gia sống với gia đình, bánh thánh đạo, một quy tắc, triết lý sống của Phật giáo, dành cho tất cả mọi người để hành trì, mà không có một sự phân biệt về chủng loại.

Song, không phải đại đa số chúng ta đều có thể xuất gia, hoặc là ẩn tu trong những hang động hay rừng rú. Giáo lý của Ðạo Phật cho dù có cao thượng hay thanh tịnh như thế nào đi nữa, nó sẽ trở nên vô ích đối đại đa số nhân loại trên thế gian này nếu họ không thể thực hành những lời dạy ấy trong cuộc sống thường nhật đối với thế giới đương đại. Nhưng nếu các vị hiểu được tinh thần của Phật giáo đúng như bản chất của nó (và không chỉ ở ngôn từ hình thức), thì chắc chắn rằng các vị có thể thực tập và hành trì những lời dạy ấy khi đang hiện hữu như một con người bình thường.

Cũng có thể có một vài người cảm thấy dể dàng hơn và thuận tiện hơn để chấp nhận Phật giáo, nếu họ sống ở một trú xứ xa xôi, cách ly với đời sống của mọi người khác trong xã hội. Một số khác lại cảm thấy rằng sự ẩn dật, tránh né như thế là một sự ngu xuẩn, và áp chế toàn bộ con người họ về mặt vật lý lẩn mặt tâm linh. Do vậy, lối sống đó không thể đưa đến sự tiến bộ về đời sống tinh thần và trí tuệ của họ.

Chân chánh xuất gia không có nghĩa là lánh xa cuộc đờivề mặt vật chất. Xá Lợi Phất (Sàriputra) vị đệ tử chính của Ðức Thế Tôn, nói rằng một con người có thể sống trong rừng, chú tâm vào việc thực hành những hạnh khổ hạnh, nhưng trong tâm vẫn chứa đầy tư tưởng bất tịnh và nhiễm ô, cấu uế, trong khi đó một người khác có thể trú tại một ngôi làng hay nơi thành thị, không thực hành hạnh khổ hạnh, song tâm của anh ta có thể được thanh tịnh, và không có nhiểm ô, cấu uế” Trong hai loại người này, Xá Lợi Phất nói, người sống một cuộc đời thanh tịnh ở nơi làng mạc hay thành thị thì rõ ràng cao thượng hơn và vĩ đại hơn người sống ở nơi rừng núi.

Tín ngưỡng thông thường rằng để thực hành lời Phật dạy, con người phải trốn tránh cuộc đời, ẩn tu ở một nơi nào đó là một quan niệm sai lầm. Ðó thật sự là một sự chống lại lời dạy của Ðức Phật một cách vô thức. Trong nền văn học Phật giáo có vô số trường hợp liên hệ đến giới cư sĩ tại gia (ưu bà tắc, ưu bà di) sống một cuộc sống bình thường, nhưng họ có thể thực hành lới dạy của Ðức Phật trong đời sống thường nhật của gia đình họ một cách thành công và kết qủa là họ đã chứng đắc sự an lạc, Niết-bàn.Trường hợp chàng du sĩ Vacchagotta, một lần chất vấn thẳng với Ðức Phật rằng liệu người cư sĩ tại gia thực hành giáo pháp của ngài một cách thành công và chứng đắc những trạng thái tâm cao chăng. Ðức Phật phát biểu một cách quả quyết rằng không phải duy chỉ có một, hoặc hai, một trăm, hai trăm hoặc năm trăm, mà có nhiều hơn nữa giới cư sĩ sống tại gia thực hành lời dạy của ngài thành công và chứng đắc những trạng thái tâm cao thượng.

Ðối với một số người nào đó, họ có thể chấp nhận sống một cuộc sống yếm thế ở một nơi yên tịnh cách ly với tiếng ồn và cảnh náo nhiệt. Song chắc chắn đáng được tuyên dương, và can đảm hơn nếu họ thực hành theo lời Phật dạy trong lúc đang sống chung với đồng loại của mình, giúp đỡ họ, và sẳn sàng phục vụ họ. Ðối với một số trường hợp, có lẽ lợi ích hơn đối với một ai đó sống trong một môi trường yếm thế trong một thời gian nhằm mục đích phát triển tâm, và nhân cách của mình, như là sự tu tập giới luật và định để trở nên mạnh mẽ hơn sau này để nhập thế giúp đỡ và phục vụ cho đời. Nhưng nếu anh ta sống cả cuộc đời viễn ly, độc cư và yếm thế, chỉ nghĩ về lợi lạc và hạnh phúc của bản thân và sự giải thoát cho riêng mình, mà không hề bận tâm lo lắng cho đồng loại, thì chắc chắn đây không phải là phù hợp với lời dạy của Bậc Ðạo Sư được căn cứ trên cơ sở tình thương, từ bi và sự phục vụ tha nhân. Bây giờ người ta có thể thắc mắc : “Nếu một ai đó có thể tu tập theo Phật giáo giữa lúc đang sống một cuộc sống trần tục, thì tại sao Tăng già, Giáo hội, Tăng đoàn được Ðức Phật thành lập ? Giáo hội Tăng già tạo cơ hội cho những ai sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình không chỉ vì nhu cầu tiến bộ về mặt tâm linh mà còn là sự phục vụ cho tha nhân, chúng sanh. Một người cư sĩ tại gia không thể hy vọng để hy sinh cả cuộc đời mình nhằm mục đích phục vụ chúng sanh, trong khi đó một người xuất gia, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm của gia thất và những mối quan hệ ngoài đời khác thì không ở vào thế mắc kẹt để dâng hiến, tận tụy cả cuộc đời mình vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc, an lạc cho quần sanh, theo lời khuyên của Ðức Phật. Chính vì thế mà trong suốt tiến trình lịch sử tự viện Phật giáo đã trở thành không những là một nơi trung tâm đời sống tâm linh mà còn là một trung tâm giáo dục và văn hóa. (Tiến sĩ Walpola Rahula, What the Buddha Taught) 

Và những điều này có thể mang lại lợi ích gì cho nhiều người?

Người xuất gia không thể mang lại sự thoải mãi về vật chất cho người tại gia, song vị ấy có thể cung cấp sự hướng dẫn phương pháp tu tập tâm linh cho những ai bị thế gian, những vấn đề tình cảm cuộc sống gia đình và nhiều vấn đề khác nữa làm phiền muộn. Người xuất gia dành trọn đời mình cho sự nghiệp theo đuổi con đường tìm cầu tri kiến, trí tuệ trong giáo pháp của Ðức Phật. Vị Tăng ấy giải thích giáo lý Ðức Phật theo một hình thức đơn giản hoá khiến cho những người tại gia không có học thức cũng có thể hiểu được những gì Ðức Phật đã dạy hơn 2500 năm qua. Và nếu người Phật tử tại gia được giáo dục tốt, kiến thức rộng, thì vị Tăng ấy hiện hữu ở đó nhằm thảo luận những phương diện sâu sắc hơn trong giáo lý uyên thâm của Ðức Phật để mà cả hai đều học hỏi lẫn nhau, rút ra nhiều kinh nghiệm, tri thức từ cuộc thảo luận đó.

Ở những quốc gia Phật giáo, phần lớn Tăng sĩ Phật giáo là người đứng ra đảm lãnh trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ. Kết quả của sự đóng góp của họ là những quốc gia Phật giáo làm quốc giáo đó, hầu hết dân chúng đều là những người có học thức và hiểu biết nhiều về những giá trị tâm linh. Người xuất gia còn xoa dịu đi những ai đang trong tâm trạng buồn về tình cảm hoặc bị mất đi người thân bằng cách giải thích ý nghĩa của quy luật vô thường chi phối mọi sự vật và tất cả nhân loại đều phải chịu chung một quy luật tương tự như vậy.

Ngược lại, người Phật tử tại gia phải có trách nhiệm chăm sóc nhu cầu đời sống vật chất cho người xuất gia giúp cho họ có điều kiện yên tâm theo đuổi những nhu cầu tâm linh của họ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2021(Xem: 16741)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 12250)
Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức cho đến năm nay (1988) đã trải qua 10 năm hoạt động trong các lãnh vực Tôn Giáo, Văn Hóa và Xã Hội cho người Việt Nam cũng như người Đức; nên muốn ghi lại những sinh hoạt này và đã sắp xếp thành một quyển sách với nhan đề là "Hình ảnh 10 năm sinh hoạt của Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức".
09/07/2021(Xem: 5109)
Vào ngày Thứ Ba (June 22) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Krisna và Pawanpur Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 354 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 36 cây số.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 21081)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14599)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 24318)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 5205)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 5724)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 6756)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]