Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1 Phía sau thân xác và giới tính là sự thèm khát...

07/12/201015:53(Xem: 3683)
1 Phía sau thân xác và giới tính là sự thèm khát...

1
Phía sau thân xác và giới tính
là sự thèm khát...

Phippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ

Phật giáo không áp đặt một quyluật nào cho xã hội con người, không hề làm luật cũng không thiết đặt một nềnluân lý mang tính cách tập thể nào cả. Phật giáo hướng vào cá nhân con người, khuyêncon người nên chọn cho mình cách sống như thế nào và cách tu tập ra sao để diệttrừ khổ đau và tự giải thoát khỏi những trói buộc của sự hiện hữu. Vì thế nhữnglời giáo huấn của Đức Phật (thế kỷ thứ V trước Giê-su) có nói đến tính dục, đấylà những lời khuyên bảo mang tính cách cá nhân, tuyệt nhiên không phải những phánlệnh áp đặt cho toàn thể xã hội con người.

Theo giáo lý của Phậtgiáo cổ truyền (nguyên thủy), tính dục cũng như tất cả những gì liên hệ đến thânxác và lạc thú phát sinh từ giác cảm đều được nhìn dưới khía cạnh của sự thèmkhát và bám víu phát sinh từ sự ham muốn, khổ đau sẽ phát sinh từ những thứ xúccảm ấy không tránh khỏi được. Tính dục thường được nêu lên như là một mối nguyhiểm hoặc như mặt đất trơn trợt xô con người rơi vào sự đày đọa của dục vọng vàkhổ đau.

Quyluật vô thường

Đức Phật nêu lên khái niệm về Bốn Sự thật Cao quý (Tứ DiệuĐế) làm nền tảng cho giáo lý của Ngài, giáo lý đó nhấn mạnh trước hết đến bản chấtcủa khổ đau bàng bạc khắp nơi và không thể nào tránh khỏi (sự thật thứ nhất).Sau đó Ngài giải thích nguồn gốc làm phát sinh ra khổ đau (sự thật thứ hai), đấylà sự thèm khát, trong đó có sự ham muốn quá độ các lạc thú tính dục, mong muốntìm được mãi những lạc thú ấy, kể cả sự ham muốn tìm thấy sự hủy-diệt và sựphi-hiện-hữu [tức mong muốn loại bỏ những gì mìnhkhông thích và những gì tệ hại có thể xảy ra]. Tại sao Phật giáo lại kếtán sự thèm khát ? Vì Phật giáo xem đó là sản phẩm của vô minh - có nghĩa làkhông hiểu mình và bản chất của sự hiện hữu của chính mình là gì. Tác động củavô minh mang lại một thứ cảm tính về một "cái ngã" tự tại, cảm tínhđó được củng cố vững chắc thêm dựa vào các kỷ niệm, thói quen, những thứ tình cảmquen thuộc thường xảy ra trong tâm thức và nhất là sự bám víu vào thân xác củamình. Thế nhưng tất cả những thứ ấy thật phù du, vì thế để cưỡng lại sự phù du ấyta càng tìm cách củng cố thêm cảm tính về "cái tôi" trường tồn bằng cáchgia tăng thêm các cảm nhận lạc thú và luôn phóng nhìn vào tương lai. Tiếc thay cáchkéo dài và bảo vệ "cái tôi" ấy chỉ hoài công, bởi vì không thể nàotránh né được quy luật của vô thường. Già nua, bệnh tật và cái chết cho thấy vôthường lúc nào cũng hiển nhiên ra đó.

Tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm nhận của thân xác.Thế nhưng thân xác lại là sản phẩm phát sinh từ nghiệptrong quá khứ, tứclà hậu quả phát sinh từ các hành động của mình từ trước. Thân xác thường được vínhư một cỗ xe quý giá, một phương tiện đưa đến giác ngộ, thế nhưng thân xác cũngđược mô tả như một gánh nặng hay nguyên nhân làm phát sinh dâm dục và mọi thứ lolắng khác, cản trở đời sống tâm linh của chính mình. Vậy hai cách hình dung ấy cómâu thuẫn với nhau hay không ? Hoàn toàn không ! Bởi vì mọi khó khăn đều phát sinhtừ sự bám víu do chính mình tạo ra cho thân xác nhưng tuyệt nhiên không phảithân xác tự tạo ra những khó khăn ấy cho nó. Thân xác nhờ có ngũ giác nhận biếtđược sự tiếp xúc phát sinh từ sự cảm nhận, dù đấy là sự cảm nhận thích thú, khóchịu hay trung hòa, vì thế tự nó thân xác chỉ đơn giản là một cửa ngõ tiếp nhậncác thứ giác cảm. Trong số đó giác cảm tính dục là một trong những thứ giác cảmthích thú nhất mà thân xác có thể mang lại cho ta. Sự kiện cảm nhận thích thúkhông có gì tệ hại cả..., nếu như sự cảm nhận ấy không gây ra bám víu và thèmkhát quá đáng : tức muốn được thích thú nhiều hơn nữa. Vì thế mọi thứ khó khănxảy ra là do phản ứngcủa ta đối vớisự thích thú, nhưng tuyệt nhiên không phải do chính sự thích thú, tóm lại sự thèm khátthích thú và muốn tiếp tục được cảm nhậnsự thích thúmới chính là nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát và ham muốn đó làm phát sinhmột loạt đủ mọi thứ dục vọng - chiếm giữ, ghen tuông , tức giận, oán hờn -chúng thay nhau hành hạ ta và khiến ta bị mù quáng. Đấy là các thứ dục vọng gâyra tội lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu ? Từ trong tâm thức của chính mình.

Điểm then chốt trong giáo lý Phật giáo là thân xác gánh chịusự kiểm soát của tâm thức. Thân xác và lạc thú tính dục không giữ một vai tròchủ động nào cả. Chính sự bám víu của tâm thức là nguyên nhân làm bùng lên đủ mọithứ dục vọng, và dục vọng là nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát là động cơchủ yếu tạo ra các phản ứng trong tâm thức. Dù cho chữ "ham muốn" (thèm khát, khát vọng, ướcmong : désir - desire) trong ngôn ngữ Tây phương phản ảnh khá trung thực ýnghĩa của chữ Phạn "râga", thếnhưng cũng cần phải hiểu đối với Phật giáo chữ "râga" (ham muốn, thèm khát) không hề mang sắc thái tích cực nhưtrường hợp của chữ "ham muốn" (désir - desire ) trong ngôn ngữ Tâyphương. Kinh sách định nghĩa chữ "râga"như sau : " Đấy là sự ham-muốn-bám-víu,có nghĩa vừa là sự bám-víucực mạnh vàosự hiện hữu và các vật thể chiếm hữu khác vừa là sự thèm-muốndo tất cả các thứ ấy tạo ra. Tác động của nó làm phátsinh mọi thứ khổ đau". Cách định nghĩa trên đây cho thấy tính cách cảnhgiác khía cạnh tiêu cực trong ý nghĩa của chữ ham-muốn. Thế nhưng trong tư tưởngTây phương, ham-muốn (désir - desire) được hiểu như một trạng thái căng thẳngthúc đẩy con người hành động, trạng thái ấy trên một khía cạnh nào đó có thểmang lại sự sáng tạo và những phẩm tính thượng thặng, chẳng hạn như sự "mong-muốn của Trời" hay của người nghệsĩ khi sáng tạo, nhưng đồng thời ham-muốn(désir - desire) cũng có nghĩa là một động lực xô ta vào khổ đau của dục vọng.Vì thế ý nghĩa của chữ ham-muốntrongngôn ngữ Tây phương không được minh bạch, thí dụ như "ham muốn tình yêu" có thể hiểu như một sự khích lệ, dù rằng hậuquả do sự ham-muốnđó mang lại lắmkhi chỉ là sự tàn phá. Giáo lý Phật giáo luôn chú trọng đến phương pháp phân tíchvà cho rằng ham-muốn-bám-víuchỉ là mộtthứ nọc độc của tâm thức, tuy nhiên Phật giáo rất cẩn thận và cũng nghĩ đến mộttrường hợp khác là ham-muốn-khát-vọngtức là một yếu tố tâm thần tương tợ với ý nghĩa ham-muốn-thúc-đẩycủa người Tây phương.

Tính dục tự nó không có gì để chê trách, chính tâm thức mớilà những gì phải lên án khi nó bị lạc thú làm mù quáng và biến nó thành một mảnhđất thuận lợi giúp các thứ nọc độc tâm thần phát sinh. Tính dục là một thể dạngtrao đổi giữa hai con người mang lại cơ hội thuận lợi giúp cho họ đón nhận nhau,chỉ khi nào có sự chiếm hữu, thèm khát quá đáng và ham muốn thỏa mãn xen vào thìkhi đó tính dục mới trở thành ích kỷ và làm phát sinh ra khổ đau. Đấy là thông điệpchính yếu của Phật giáo. Phật giáo không quan tâm đến việc nối dõi tông đường hayhôn phối vì đấy chỉ là các thể dạng trói buộc trong cuộc sống, các mối tương giaogiữa con người và sự khống chế của sinh lý.

Dưới nhãn quan Phật giáo, hôn nhân không mang tính cáchthiêng liêng, không cần đến các lễ nghi ban phép lành. Giáo lý nhà Phật chỉ đòihỏi phải có sự tương kính, hy sinh cho nhau và tránh mọi hung bạo. Phật giáo khônghề xem thân xác và thế giới này là những gì xấu xa, Đức Phật chủ trương con đườngtrung đạo bác bỏ mọi hình thức khổ hạnh và hành xác có nghĩa là giữ đúng vị thếgiữa hai thái cực, một bên là đời sống thế tục một bên là sự khắc nghiệt của khổhạnh, sự khắc nghiệt ấy chỉ đày đọa thêm cho thân xác nhưng không mang lại một sựgiải thoát nào. Ý thức được bổn phận của mình tức là cách giữ gìn đạo đức tínhdục, hôn nhân không phải là một sự chiếm đoạt. Đối với những người chưa thấutriệt đạo lý, đời sống tính dục sẽ biến thành động cơ chính yếu thúc đẩy sự vậnhành của khổ đau trong chu kỳ hiện hữu (thế giới ta-bà), đấy là điều mà Phật giáochủ trương phải ra thoát. Dựa trên quan điểm đó người Phật giáo tại gia phải biếtkính trọng mình và người khác và người tu hành khi đã xa lánh cuộc sống thế tụcphải tuyệt đối tránh các hành vi tính dục. Thế nhưng Phật giáo Đại thừa có vẻ cởimở hơn so với sự khắt khe của Phật giáo Nguyên thủy (Nam tông). Trong học pháiTan-tra thừa tính dục được chuyển thành một hình thức tập luyện Du-già và được xemnhư một phương pháp mang lại Giác ngộ. Nói chung Phật giáo giữ một thái độ rấtphóng khoáng đối với vấn đề tính dục.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 6643)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4937)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51612)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9280)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20802)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7776)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12127)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15118)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3967)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567