Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không?

15/10/201017:02(Xem: 9136)
Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không?

Vào tháng 12-1999, nhiều nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo từ các miền khác nhau trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Đô, Bỉ và Hoa Kỳ... gặp nhau tại New Delhi để thảo luận về vấn đề Phật giáo có liên quan đến Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không? Các học giả đưa ra giả thiết rằng Phật giáo là một xu hướng chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hoặc một tôn giáo độc lập có truyền thống riêng biệt.

Vấn đề càng phức tạp hơn cho những người Ấn có tín ngưỡng mạnh mẽ, hoặc một số những người khác thiên về lý thuyết và lịch sử, hoặc một số những người khác cho là đã có sự giải thích sai trong sự nghiên cứu tiền sử. Thực tế, cách tiếp cận khác nhau của những nhà nghiên cứu đó cho thấy tính nghiêm túc, phức tạp và ý nghĩa của vấn đề này.

Hơn bốn thập niên qua, sự khác nhau trong những cách tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu tôn giáo. Và kết quả là nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ khác nhau như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức... đã được xuất bản liên quan với chủ đề này. Trong lời giới thiệu cuốn sách 2500 năm của đạo Phật (2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956), một trong những học giả Ấn Độ nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan đã mô tả Phật giáo như "một nhánh của tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có lẽ là một dị giáo". Từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ, chắc chắn là những học giả Ấn Độ, tương tự như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm kết lịch sử Phật giáo Ấn Độ và mở rộng từ quan điểm riêng này.

Xung đột giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất Phật giáo (tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ) là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ xưa và sự truyền bá quan điểm Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo cần phải được nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo. Những quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thê bằng phương pháp khoa học.

Bài viết này tập trung vào mối bất đồng của chúng tôi về những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo.

dieumuanguoiAn
Một điệu múa của người Ấn

1. Nguồn gốc Phật giáo

Dường như ở Ấn Độ có một khuynh hướng mô tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, xem Phật Thích Ca là một vị Hindu, và tô màu Ấn Độ giáo giống như công giáo để chống Vệ đà và tà thuyết như Đức Phật Thích Ca. Lý thuyết lợi hại này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ khiến những học giả và sử gia phải mất nhiều thời gian để loại trừ những ảo tưởng này và vạch rõ phương cách cho việc nghiên cứu Phật giáo nghiêm túc từ quan điểm lịch sử bằng phương pháp khoa học. Khuynh hướng này tại Ấn Độ đã cho thấy sự hiểu biết rộng rãi của đa số quần chúng quan tâm tới Phật giáo và chủ yếu cho thấy thái độ chung của người Ấn khi nhìn Phật giáo bằng những cách giải thích của họ.

Nói chung, hiện nay phần lớn trong cuộc sống người Ấn có một lòng tin mạnh mẽ đối với Ấn Độ giáo hơn là với Phật giáo, mặc dù Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa hơn Ấn Độ giáo cả về học thuyết lẫn thực nghiệm.

Thông thường dễ thấy rằng Ấn Độ giáo (thật ra là một tôn giáo mới xuất hiện ở Ấn Độ), đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của mình, giữ độc quyền không những về tâm linh, mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, xu hướng này – theo cách tư duy chính thống – đã tách người Ấn Độ ra khỏi cộng đồng thế giới, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ thứ XXI.

Thái độ đối với Phật giáo của những người Hindu nói chung cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo, Phật giáo hòa trộn vào trong Ấn Độ giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhà đại cách tân Hindu và đồng thời là một vị thần Hindu vĩ đai.

Sự việc này khiến chúng ta phải khảo sát cẩn thận và đưa ra cách suy nghĩ khác rằng, Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể nghiên cứu vượt ra ngoài nhận thức lịch sử và khoa học. Người ta có thể nhận thấy rằng, hiện tại người Ấn Độ có cảm giác tự hào về tôn giáo đáng kính yêu, về nền văn hóa Vệ đà và những học thuyết thần thánh của họ mỗi khi chúng ta tình cờ gặp họ hoặc thảo luận với họ.

Quan điểm của nhiều học giả đều cho rằng có một số học giả tâm huyết với Vệ đà và Bà La Môn giáo (những sử gia Ấn Độ hiện đại, những người lãnh đạo và những nhà tư tưởng quốc gia) đều mô tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có lẽ là một phân giáo, lúc đó được xem như tà giáo.

Một số học giả Hindu – chuyên chú về Phật học hoặc nghiên cứu vài vấn đề nào đó của Phật giáo hoặc vài tác phẩm về Phật giáo – kết luận rằng Phật giáo đã chịu ảnh hưởng sâu xa từ tư tưởng Vệ đà ngay từ nguồn gốc của nó và là một dị giáo của Bà La Môn giáo. Theo khảo cổ, ít ra, chúng ta không thể coi Phật giáo đơn thuần như một “tà giáo” đối chọi lại tính chính thống Ba La Môn đang phổ biến, mà ngược lại, Phật giáo cần nên được xem xét như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.

Như được trình bày ở trên, lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo đã cho chúng ta biết rằng quan điểm của Vệ đà và Bà La Môn đã gây ảnh hưởng và giữ độc quyền không những về lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ, mà còn cả lĩnh vực nghiên cứu xã hội và lịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói gọn trong một câu, đó là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để phơi bày và làm minh bạch những đặc tính thật của Phật giáo, chúng ta có thể đặt vấn đề đúng đắn để xem Phật giáo có quan hệ như thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đầu.

2. Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo


Chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan, quan điểm của ông có thể được xem như một quan điểm đang phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể được tóm tắt như sau: Đức Phật đã không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống (Traditional Interpretation), duy vật (Materialistic Interpretation) và trào lưu chính thống (Fundamentalist Interpretation) của Phật giáo liên quan với Bà La Môn giáo chính thống.
Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tế là lịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà (Bà La Môn giáo) và thế giới – siêu việt (thế giới – phủ định) đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà (Phật giáo).

Về lịch sử, rõ ràng cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáo là đại diện cho hai truyền thống riêng biệt: truyền thống Vệ đà và truyền thống Sa môn. Thế nên, thật không thích hợp để thiết lập lý thuyết nguồn gốc Phật giáo từ Vệ đà được.

Sự giải thích theo duy vật của một vài học giả, dưới ảnh hưởng biện chứng theo duy vật lịch sử do Karl Marx đề xướng, nhằm tương quan với tư duy khổ hạnh và kiến tri – từ thời Đức Phật (624-544 trước Tây lịch) cho tới sự trỗi lên của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thương mại tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách nhìn này hoàn toàn là suy đoán và viển vông, vì không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong cảm quan của người theo học thuyết Marx mà cũng không có chứng cớ tổ chức giai cấp trung lưu kiểm soát trọn vẹn kinh tế – tiền tệ xã hội ở thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch. Hơn nữa, thực không thể nào cho rằng những lý tưởng tinh thần của Bồ tát (Bodhisattva: sẽ trở thành Phật) được xác định bởi ý thức xã hội theo hệ quả của tiến trình vật chất; thực ra lối giải thích theo duy vật máy móc này chỉ là một bằng chứng bộc lộ sự thô thiển trong nghiên cứu của họ.

Còn giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng đối với số ít người theo đạo Hindu thì Đức Phật là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn, vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo: tế lễ – hy sinh và học thuyết bốn giai cấp, những điều bị Đức Phật chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng... nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết học và lịch sử của Phât giáo mà chính là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, Phật giáo được xem là có liên quan với Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đem ra thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đà và Bà La Môn đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây, họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, do bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas; nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo.

3. Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo


Cả trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, Phật giáo và Ấn Độ giáo được xem như là một, vì có vài sự giống nhau về lý thuyết và thực hành của cả hai, thực ra Phật giáo và Ấn Độ giáo là hai hệ thống hay hai truyền thống tôn giáo tuyệt đối khác nhau.

P.V. Kane, một nhà Ấn Độ học nổi tiếng, đã sai lầm khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn đạo Hindu. Ngài đã không cảm thấy, hoặc tuyên bố là Ngài đang thành lập một tôn giáo mới mà cũng không tuyên bố từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói về mối liên quan giữa Phật giáo với Ấn Độ giáo, thật là hữu ích nếu chúng ta khảo sát cẩn thận thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ.

Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo cần phải xem xét từ quan điểm lịch sử và góc độ khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại, cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và cho thấy rằng Đức Phật không cảm thấy Ngài đang công bố một tôn giáo mới. Từ “Hindu” không xuất hiện trong lời tuyên bố của Đức Phật; và Ngài cũng không đề cập tới những thánh nhân Vệ đà hoặc những nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là những đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.

Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và tượng trưng cho những hình thức tôn giáo Bà La Môn và Ấn Độ thời trung cổ. Từ Hinduism bắt đầu sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thông thường với quan niệm để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Chúng ta không thể sử dụng từ Hinduism vào thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng rồi mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà, giống như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi chính xác đạo Thiên Chúa mặc dù đạo Thiên Chúa được thành lập trước đạo Do Thái.

Về mặt khảo cổ học, không thấy sự xuất hiện từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học Ấn Độ cổ đại, và chưa từng được khám phá từ thời Alberuni (khoảng 1030 Tây lịch). Có lẽ, đầu tiên ông ta đề cập tới người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một dạng của “Sindhu”, trước hết do người Ba Tư sử dụng, xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” xuất hiên trong bia ký của vua Darius xứ Iran; và ở đây được dùng theo ý nghĩa địa lý là biểu thị cho dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong Ba Tư cổ đại, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; còn tiếng Anh gọi là Indian và India.

Như chúng ta thấy ở trên, Phật giáo và Ấn Độ giáo khác nhau hoàn toàn từ quan điểm lịch sử lẫn quan điểm ngôn ngữ và khảo cổ, mặc dù có phần giống nhau giữa Phật giáo sau này và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có một bằng chứng mạnh mẽ về ảnh hưởng của Phật giáo trong ngôn ngữ cũng như trong nhưng học thuyết của Ấn Độ giáo; bởi vậy, phải thừa nhận rằng chúng ta không thể hình dung Phật giáo là một sự đồng hóa của Ấn Độ giáo (thực sự về sau họ có vay mượn một số thuật ngữ và giáo lý quan trọng từ Phật giáo).

Chúng ta có thể kết luận, thật không công bằng khi cho rằng Đức Phật như một “Hindu”, hoặc một nhà cải cách lớn của Hindu giáo, vì không có Ấn Độ giáo vào thời của Ngài.

Từ thảo luận ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc của Phật giáo và những mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo đã được chi tiết hóa bởi những học giả Ấn Độ hiện đại có quan điểm Vệ đà và Bà La Môn, hoàn toàn chỉ là suy đoán. Hơn nữa, chính do hiểu rõ về mặt lịch sử, Phật giáo – một trào lưu chính thống nhất của phong trào chống lại Vệ đà và Bà la môn (truyền thống Sa môn) – đã xuất hiện như một tôn giáo riêng biệt và độc lập tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Tây lịch không thể được xem là bị ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Vệ đà. Ngược lại, cả Bà La Môn giáo lẫn Ấn Độ giáo, học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ đã bị Đức Phật chỉ trích, mặc dù hiện nay chúng vẫn còn hiện hữu trong những cộng đồng của đạo Hindu.

Chúng ta không thể nghiên cứu tôn giáo từ lập trường ý thức hệ riêng biệt này hoặc kia đơn thuần chỉ vì lòng tin của chúng ta hoặc đơn thuần bởi vì tình cảm đặc biệt của chúng ta đối với tôn giáo đó. Nếu vậy, cách nhìn của chúng ta sẽ bị phiến diện dù chúng ta đang làm một công việc quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.

Thật sai lầm khi ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã đưa ra con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và để cho thấy rằng Đức Phật không xác định Ngài đang công bố một tôn giáo mới.

Hơn nữa, không có sự tương ứng hoặc thỏa thuận quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo thời kỳ ban đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những nền tảng khác nhau trong kỷ nguyên Vệ đà tiền sử và trong thời Đức Phật tại thế.

Như chúng ta vừa đề cập ở trên về mặt ngôn ngữ và khảo cổ, từ “Hindu” có liên quan với tiếng Ba Tư và Ả-rập thời Ấn Độ trung cổ. Bởi vậy, chúng ta không có lý do chính đáng để dùng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử vào thời của Đức Phật Thích Ca; còn mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo thì cũng vô nghĩa và sai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu, cũng không là một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” vào thời Ngài, mà chỉ duy nhất có Bà La Môn giáo nguyên thủy và Vệ đà. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật đã cải cách nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài đã không tuyên bố là một nhà cải cách. Và không có kinh điển Hindu cũng như của Bà La Môn nào nói đến Ngài như một nhà cải cách.


Sách tham khảo
1. Kalupahana, D.J., 1992, A History of Buddhist Philosophy, the University of Hawaii Press.
2. Joshi, L.M., 1987. A comparative study of Buddhism and Hinduism, Journal of Indian Civilization, volume 6. No.2- (Summer), 15-39, Sri Lanka.
3. Kane, P.V., 1994. Dialogues of the Buddha, Journal of Religious Researches, volume 2, No.1 (Spring), 23-35, India.
4. Rhys Davids, T.W., 1936. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization, Journal of Indology, volume 14, No.1 (Winter), 15-48, London.
(Trích từ The Indian International Journal of Buddhist Studies, No.4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7).

CHENG JIANHUA
GIỚI HƯƠNG
chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2021(Xem: 16730)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 12241)
Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức cho đến năm nay (1988) đã trải qua 10 năm hoạt động trong các lãnh vực Tôn Giáo, Văn Hóa và Xã Hội cho người Việt Nam cũng như người Đức; nên muốn ghi lại những sinh hoạt này và đã sắp xếp thành một quyển sách với nhan đề là "Hình ảnh 10 năm sinh hoạt của Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức".
09/07/2021(Xem: 5109)
Vào ngày Thứ Ba (June 22) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Krisna và Pawanpur Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 354 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 36 cây số.
26/06/2021(Xem: 9798)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 21064)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14579)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 24293)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 5205)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 5724)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 6756)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]