Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới Thiệu Sách: Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại (pdf)

05/05/201320:54(Xem: 3506)
Giới Thiệu Sách: Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại (pdf)

Giới thiệu sách:
QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
TRƯỚC CÁC VẤN ĐỀ HIỆN ĐẠI
Thích Nhật Từ

quandiemcuaphatgiao-bia-content“Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đềhiện đại” là một tuyển tập các bài viết của các giáo sư Phật học và các nhàkhoa học nổi tiếng thế giới về các vấn đề thời đại, dưới cái nhìn Phật giáo.Tiến sĩ Đỗ Kim Thêm đã dày công sưu tầm và phiên dịch các bài nghiên cứu đặcsắc và có giá trị nghiên cứu này, góp phần làm phong phú nền Phật học Việt Nam.

Việc Liên Xô và khối Xã hội Chủ nghĩa từcuối thập niên 1980 của thế kỷ XX là những biến động quan trọng đã làm thay đổicục diện thế giới triệt để. Những thành tựu ngoạn mục của các ngành khoa họchiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, đem các dân tộc trên thế giới gầngũi và thông cảm nhau hơn bao giờ hết.

Cách biệt địa lý không còn nữa nên cũng làđộng cơ thúc đẩy cho các công ty đa quốc đầu tư ào ạt trên bình diện toàn cầuvà làm gia tăng cơ hội mậu dịch và xuất khẩu cho các nước chậm tiến. Đây là mộtđiều kiện tiên quyết cho các nước hội nhập vào sinh hoạt chung của thế giới.Các hình thức viện trợ quốc tế gia tăng cũng tạo thêm phương tiện hữu hiệu làmcho tiến trình thay đổi này được nhanh hơn.

Trước một bối cảnh toàn cầu hóa đầy năngđộng và lạc quan ai cũng tin là phát triển kinh tế, tôn trọng nhân quyền, pháthuy dân chủ, bảo đảm bình đẳng về an sinh phúc lợi, nâng cao văn hóa, trao dồiđạo đức cho mọi người là một khả năng hiện thực và thế giới đang tiến dần vềmột nền văn minh đại đồng và hòa bình vĩnh cửu.

Nhưng thực tế đã xảy diễn trái ngược. Xungđột địa phương và bạo lực giữa các sắc tộc lan rộng, khủng bố nhân danh tôngiáo đe dọa an ninh toàn cầu đến mức độ đáng ngại, kinh tế tại các quốc giacông nghiệp suy thoái nghiêm trọng, giá trị của mô hình kinh tế thị trường bịnghi ngờ và không ai còn tin các giải pháp kinh tế xã hội hiện nay sẽ mang phéplạ làm biến đổi được tình hình ngày càng nguy kịch.

Triển vọng hội nhập vào kinh tế thế giớicủa các nước chậm tiến cũng trở nên mơ hồ vì cơ hộigiao thương và đầu tư ngoạiquốc lại sụt giảm. Tác hại hơn, giá trị dân chủ không được phát huy, nhân quyềnbị vi phạm có hệ thống, mọi tự do dân chủ cơ bản đều bị bóp nghẹt, bình đẳng vàan sinh xã hội cho người nghèo không đạt được, vì các chế độ độc tài chỉ giúpcho tham nhũng bất công và nghèo đói gia tăng.

Dù những thành tựu trong mọi lãnh vực đãvà đang đóng góp sự phát triển chung một cách đáng kể nhưng vẫn còn quá xa sựmong đợi. Thế giới hiện nay có chung vấn đề mới là biến đổi khí hậu, môi sinhthay đổi, tài nguyện cạn kiệt, dân số gia tăng, giáo dục xuống cấp. Bi quannhất có lẽ là quan hệ con người trong một thế giới bất ổn không được coi trọngvà hoằng dương đạo đức, một điều kiện chủ yếu để phát triên nhân cách và tâmlinh cá nhân để đóng góp cho một thế giới hòa bình trở nên khó khăn hơn.

Trong viễn cảnh đó, những người ưu tư vàđặc biệt là các Phật tử luôn muốn tìm hiểu quan điểm của Phật giáo trước cácvấn đề nóng bỏng hiện nay của thế giới như thế nào. Ngoài việc hướng dẫn choPhật tử thực hành học Phật tu nhân trong đời sống hằng ngày để tìm về bến giác,thì giáo lý Phật giáo có những luận giải và đóng góp trong các vấn đề như chiếntranh, hòa bình, kinh tế, nhân quyền, dân chủ, tự do, khoa học, môi sinh, tiêuthụ và dân số. Đây là chủ đề chính của tuyển tập này nhằm giới thiệu các côngtrình nghiên cứu của các học giả nổi danh từ Anh, Đức và Pháp ngữ được TS. ĐỗKim Thêm dịch sang Việt ngữ để phục vụ cho người Việt nắm bắt được vấn đề vàđóng góp vào việc thảo luận chung hiện nay. Bố cục và đại ý của các chuyên đềtrong tuyển tập này gồm 6 phần, mỗi phần là một chương.

Chủ đề của chương 1 là Chiếntranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo. Nguyên bản Anh ngữcủa bản dịch là War and Peace, chương VI trong tác phẩm AnIntroduction to Buddhist Ethicscủa GS. Peter Harvey do nhà xuất bảnCambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 239-285.

Peter Harvey đãluận giải về nguyên nhân của tranh chấp trong một thế giới đầy bạo lực và lậptrường bất bạo động là giải pháp đạo đức cho các xung đột. Giáo lý Phật giáo đềra những cơ sở đạo lý cho việc suy tưởng này và hướng dẫn thực hành về phươngthức bất bạo động. Giảm sân hận và tăng nhẫn nhục, thực tập kiên trì và hỷ xảsẽ giúp cho xoa dịu tình huống.

Ngoài những luậngiải theo kinh điển ông đã trình bày về những đóng góp của Phật giáo cho hòabình trong thế giới hiện đại, mà những hoạt động hỗ trợ thuộc tông phái NhậtLiên tại Nhật, Sarvòdaya Sramadàna tại Sri Lanka, tác động hòa giải của Hòathượng Mahà Ghosànanda trong việc khôi phục Campuchia là những kinh nghiệm thựctế.

Tác giả kết luậnrằng ở thế kỷ XX vẫn còn nhiều cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại bạo lực,nhưng truyền thống Phật giáo là một nguồn gốc quan trọng để có thể tìm một giảipháp cho xung đột. Trong khi tự do tôn giáo vẫn còn bị tiếp tục đe doạ, thìcũng có những nhà lãnh đạo tôn giáo dùng bất bạo động làm phương thức để chốngchính quyền độc tài.

Những người đấutranh cho hòa bình theo quan điểm của Phật giáo hiện nay là Dalai Lama, AungSan Suu Kyi, Ariyaratne, Ghosànanda, Dalai Lama và Aung San Suu Kyi đã nhậngiải Nobel về hòa bình trong khi Ariyaratne, Ghosànanda đều được đề cử để nhậngiải. Với phương cách trích dẫn các loại kinh điển cực kỳ công phu và thư mụcnghiên cứu nghiêm túc, GS. Peter Harvey đã minh chứng rằng quan điểm của Phậtgiáo có khả năng giải quyết chiến tranh và đem lại hòa bình cho nhân loại.

Trong chương 2, “Đạođức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo” Peter Harvey trích dẫn kinhđiển Đại thừa để chứng minh rằng Phật giáo đã có đề cập đến các vấn đề kinh tế.Giá trị cổ truyền của Phật giáo là đối nghịch với những giá trị trong một xãhội nặng về chiếm hữu và tiêu thụ vì phúc lợi vật chất không là cứu cánh tựtại, mà chỉ là một phương tiện mang lại hạnh phúc cho con người và hỗ trợ chosinh hoạt nhằm phát triển đạo đức và tâm linh.

Nguyên bản Anh ngữcủa bản dịch là Economic ethics, chương V trong tác phẩm AnIntroduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and IssuescủaGS. Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000,từ trang 187-238.

Đức Phật đã dạycho cư sĩ rằng mưu sinh liêm chính là giá trị tâm linh sẽ giúp thành công trênthế gian, đặc biệt là khi cư sĩ biết sử dụng phù hợp thu nhập và bố thí. Tháiđộ đạo đức của Phật tử đối với tài sản sẽ có những ảnh hưởng tốt đẹp đến việcphát triển kinh tế xã hội.

Đối với giới lãnhđạo, đức Phật nói rằng nghèo đói có mặt thì bất ổn xã hội tăng lên, trách nhiệmcủa vua quan là quan tâm đến người nghèo và đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhaucho nền kinh tế. Phật giáo kêu gọi lòng hào phóng, buông bỏ và từ bi của giớilãnh đạo và Phật tử. Khi tất cả mọi người nỗ lực để làm việc cho một xã hội đạtnhiều công bình hơn, thì kêu gọi công bình tự tại hay công bình trong việc phânphối về kinh tế là không cần thiết. Tu viện là một định chế chủ yếu trong mạnglưới chính về thương mại và bố thí và hoạt động của tu viện đã có những hiệuứng về kinh tế. Thái độ kinh tế của sư tăng cũng có vai trò quan trọng để pháttriển tăng đoàn và xã hội.

Đạo đức kinh tếcủa Phật giáo không tương phản với việc phát triển chủ nghĩa tư bản và đã hỗtrợ cho chủ nghĩa tư bản sơ khai tại Ấn thời cổ, tại Trung Quốc và Nhật Bảnthời trung cổ. Có nhiều phê phán rằng Phật giáo giúp cho tín đồ tu tập hướng vềmột thế giới khác, làm giảm đi những động lực phấn đấu cho giá trị của thế giớinày, vì thế Phật giáo không có một vai trò tích cực trong việc thay đổi xã hội.Đây là một luận điểm sai lầm vì không coi trọng mối quan hệ giữa Phật giáo vàxã hội. Tác dụng của Phật giáo đối với nhà nước được chứng minh qua việc cổ vũvề đạo đức, công tác từ thiện. Phật giáo đã đóng góp rất lớn trong việc canhtân và phát triển Nhật là một thí dụ điển hình.

Kinh tế học theoquan điểm Phật giáo hoàn toàn khác biệt với kinh tế học của chủ nghĩa tư bản vàChủ nghĩa Xã hội. Phát triển kinh tế phải được đặt trong một bối cảnh rộng rãihơn về nhu cầu phát triển nhân cách toàn diện và hạnh phúc an lạc mà lối sốngcủa Phật tử sẽ đem lại ý nghĩa cao đẹp cho một nền kinh tế. Phật giáo thấy cốttủy của văn minh không chỉ nhằm gia tăng những ham muốn nhưng mà còn làm thanhcao nhân cách của con người. Tìm cách triển khai khái niệm này bằng cách đềxuất một loại chủ nghĩa xã hội mang màu sắc “chính Pháp” (Dhammic Socialism)là một phương cách trung dung để tránh được sai lầm đã có của các chủ nghĩatrong bối cảnh hiện đại.

Mô hình phát triểncủa phong trào Sarvòdaya Sramadàna tại Sri Lanka là một thí dụ vì đã tái khámphá đạo đức xã hội của Phật giáo. Những giáo huấn Phật giáo nhằm hướng tới mộttinh thần dấn thân cho xã hội, tạo một phương cách hội nhập hòa hợp theo mộtđường lối trung dung và thay đổi nhằm đem lợi ích cho cá nhân, xã hội và môitrường, hòa nhập cải thiện vật chất vào tâm linh, với sự chuyển hóa của cá nhânvà với sự tương trợ trong xã hội. Sự đóng góp của Phật giáo trong việc pháttriển kinh tế hiện đại của Nhật được minh chứng qua sự thành công của phongtrào Sòka Gakkai, phong trào xây dựng giá trị xã hội, một hình thức của Phậtgiáo theo Nhật Liên Tông.

GS. Peter Harveyminh chứng rằng khi xem Phật giáo không quan tâm đến các vấn đề kinh tế, thìđây là một sai lầm, vì đức Phật có hoằng hóa cho các cư sĩ, tăng đoàn và giớilãnh đạo về các lĩnh vực kinh tế. Hình thức tiêu thụ của chủ nghĩa tư bản vàgiáo huấn của Phật giáo, khi gặp nhau, có nhiều phù hợp hơn, nếu chủ nghĩa tư bảnđóng góp cho việc phúc lợi chung hơn là tìm tư lợi. Trong phương cách làm việccủa Phật tử có thể đóng góp nhiều trong sự phát triển chung, mà giá trị của nóđược đặt ra trong môi trường xây dựng nhân cách, hơn là chỉ đơn thuần là tạothêm thu nhập.

Trong chương 3,vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo theo quan điểm Phật giáođượcđề cập. Nguyên bản Đức ngữ của bản dịch là “Menschenrechte und religiöseFreiheit aus der Sicht des Buddhismus” được đăng trong Hans Küng &Karl-Josef Kuschel (Hrsg.): “Weltfrieden durch Religionsfrieden, Antworten ausden Weltreligionen”, Piper, München, Zürich 1993, trang 109-139. Tham luận nàyđược GS. Masao Abe trình bày tại cuộc hội thảo quốc tế: Các tôn giáotrên thế giới và vấn đề nhân quyền, do UNESCO tổ chức vào ngày 8-10 tháng 2năm 1989 tại Paris.

Masao Abe cho rằng có sự khác biệt củaPhật giáo và các tôn giáo phương Tây, vì Phật giáo không đặt vấn đề sự hiện hữucủa một Thượng đế cá nhân, mặc khải, tiên tri hay cứu rỗi qua niềm tin. Phậtgiáo không từ bỏ, lên án hoặc kết tội là tà giáo, mà thực ra phê phán trongtinh thần xây dựng, dưới nhiều nhãn quan khác nhau và cùng nhau hướng về mộttín ngưỡng chung. Phật giáo hướng dẫn tìm hiểu về quy luật duyên khởi, tự kiếnbản ngã, suy niệm và thoát bỏ mọi hệ lụy. Phật giáo không chủ trương cực đoanphủ nhận những tín ngưỡng khác với tín ngưỡng của mình.

Lập luận bảo vệ nhân quyền của Phật giáocũng hoàn toàn khác biệt vì trong kinh điển Phật giáo không có ý niệm nhânquyền tương tự theo ý nghĩa của phương Tây. Phật giáo không cho rằng bản thểcon người chỉ giới hạn trong quan điểm về nhân chủng, mà đặt con người trongmột tuơng quan rộng rãi hơn với tạo vật và vũ trụ. Theo Phật giáo, con người làmột thành phần hữu tri giác trong một tổng thể của muôn loài vừa hữu tri giácvà vô tri giác, vì con người và tạo vật trong vũ trụ đều đặt mình trong quyluật sinh diệt hữu hạn. Do đó nhân quyền trong Phật giáo được hiểu trong chiềuhướng vũ trụ, phổ quát và vượt qua ý niệm về nhân chủng này. Phật giáo khôngloại bỏ những quyền của các sinh vật khác như cây cỏ và thú vật.

Để hiểu quan điểm của Phật giáo về vấn đềnhân quyền đúng đắn hơn, điều cần thiết nhất là phải đặt lại vấn đề bản ngã,bởi vì vấn đề nhân quyền và tự do của con người không thể nào lãnh hội được nếukhông có sư hiểu biết tường tận về bản ngã. Trong tất cả những điều răn củaPhật giáo đều hàm chứa một điều: không nên hủy diệt cuộc sống, lời khuyên nàykhông những áp dụng cho con người mà còn cho cả muôn loài có tri giác. Thiênnhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ thuộcvào thiên nhiên. Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo tại phương Tây đãgây ra một hậu quả quan trọng trong các vấn đề tự do tôn giáo.

GS. Masao Abe kết luận là Phật giáo có thểđóng góp trong vấn đề nhân quyền và khoan dung tôn giáo với ba giải pháp: Buôngbỏ mọi ràng buộc vào hệ thống tín điều và giáo điều. Không có một tôn giáo nàotồn tại mà không có hệ thống tín điều, nhưng thái độ đối với hệ thống tín điềulà quan trọng. Khi mà tín điều chỉ được coi là chủ yếu và chỉ nhằm ràng buộcmọi tín đồ, thì hệ thống tín điều này chỉ là một giáo điều.

Sự nhấn mạnh đến giáo điều thường đưa tớisự phân hóa trong tôn giáo và đưa tới sự phản kháng của các tôn giáo khác. Điềunày tạo ra những xung đột tôn giáo ngay cả đến thánh chiến. Các tôn giáo nàythường nhấn mạnh quá mức mọi niềm tin duy nhất vào chân lý mặc khải cũng cònđược biết đến về sự cố chấp của mình, điều này bắt nguồn từ hình thức tínngưỡng cứng nhắc mà ra. Khi nào chúng ta từ bỏ mọi ràng buộc với các gíáo điềuvà trở về với chân lý tôn giáo như là cội nguồn của đạo lý, chừng đó chúng tamới tránh được mọi phân hóa và thánh chiến và chúng ta không những khoan dungtrong chính tôn giáo mình mà còn khoan dung với các tôn giáo khác.

Chủ đề của chương 4 là pháttriển khoa học theo quan điểm Phật giáo. “Vô Tận trong lòng bàn tay-Từ thuyết Đại bùng nổ đến Giác ngộ” là một tiểu luận Việt ngữ của TS. ĐỗKim Thêm đã đăng lần đầu tiên trên Tập San Viên Giác Tây Đức Số 126 Xuân NhâmNgọ 2002. TS. Thêm viết để giới thiệu tác phẩm Pháp ngữ “L’infini dansla paume de la main - Du Big Bang à l’Éveil” của Matthieu Ricard và TrịnhXuân Thuận, Nhà xuất bản: Fayard/Nil, Paris 2000 nhằm giúp cho bạn đọc ngườiViệt theo dõi một cuốn sách đang bán chạy nhất tại thị trưòng Pháp ngữ mà lúcđó các bản dịch Anh và Việt ngữ chưa ra đời. Về sau bài này được trang mạng Thưviện Hoa Sen, Vietsciences và nhiều trang mạng khác phổ biến.

Tác phẩm “L’infini dans la paume de lamain - Du Big Bang à l’Éveil” là một công trình đầu tiên quy mô và nghiêmtúc nhằm đối chiếu những thành tựu khoa học hiện đại với những luận điểm liênhệ theo Phật giáo.

Nội dung được hai tác giả đề ra để thảoluận về mối quan hệ giữa Phật giáo là sự dị biệt về hai trào hướng của hai lãnhvực, vấn đề sự khai nguyên vũ trụ, nguyên lý tổ chức cho vũ trụ, giải thích sựhiện hữu của các phần từ sơ đẳng, tính cách vô thường trong thế giới hiệntượng, vấn đề định mệnh, thời gian, thuyết nhân quả, quan hệ giữa tinh thần vàvật chất, quy luật khoa học và quy luật Phật giáo, tầm quan trọng của lý trítrong khoa học và suy niệm trong Phật giáo, thẩm mỹ trong khoa học và Phật học,khoa học hành động theo Phật giáo.

Với một kiến thức uyên bác về vấn đềchuyên môn và khả năng giải thích trong sáng, hai tác giả luận giải về tươngđồng và dị biệt giữa tôn giáo và khoa học. Khởi đầu từ luận đề của Galilée họcgiới cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đốichiếu Phật giáo với các tôn giáo khác đã cho rằng Phật giáo có thể đáp ứng đượcnhững nhu cầu đòi hỏi của khoa học. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý vàthực tiễn của Phật giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trênkinh điển và giáo điều.

Hai tác giả kết luận rằng Phật giáo là mộttôn giáo có thể đối thoại với khoa học. Phật giáo và khoa học không những khôngđối kháng mà còn bổ khuyết cho nhau trong việc tìm hiểu khoa học hiện đại vàđời sống tinh thần của từng cá nhân cũng như trong nỗ lực về sự chế ngự thiênnhiên và kềm chế bản ngã để tìm đường thoát khổ.

Trong chương 5, những vấn đềdân số, tiêu thụ và mội trường theo quan điểm Phật giáođược đềcập chi tiết. Nguyên bản Anh ngữ của bài này là “BuddhistResources of Issues of Population, Consumption and the Environment” đượcđăng trong Mary Evelyn Tucker and Dunncan Ryuken Williams (eds.): Buddhism andecology: the interconnection of dharma and deeds, Harvard University, Centerfor the Study of World Religions, Cambridge Mass: Harvard Uni Press, 1997 pp.291- 311.

Giáo lý Phật giáokhông hề trực tiếp đưa ra những giải pháp cho các vấn đề của thời đại như dânsố, tiêu thụ hay môi trường. Tuy nhiên khi giải thích những giá trị nội tại củagiáo lý Phật giáo qua kinh điển, thì ta sẽ tìm ra những đường lối thích hợp đểgiải quyết các vấn đề này. Giải thích giá trị của Trung đạo sẽ tìm ra một giảipháp cho các vấn đề, mà thái độ tiết chế là một đề nghị và Phật tử nên noitheo. Chúng ta không thể mở rộng môi trường và gia tăng tài nguyên tùy thích,mà chỉ có thể giảm bớt dân số và tiết chế tiêu thụ

Phật giáo khôngkhuyến khích sinh sản, không bắt buộc Phật tử phải có con như một bổn phận tôngiáo. Sinh con hay không là do quyết định của riêng mình. Quyết định này đến từý thức về cuộc sống của con người trong thế gian và trách nhiệm trong tình liênđới, chứ không phải do tai nạn hay bổn phận.

Phật giáo đề caorất mực điều may mắn khi được sinh ra làm kiếp con người, không phải vì có nhânquyền hay được đứng trên tạo vật khác. Theo ý nghĩa tiết chế thì sống một đờixa xí là vô nghĩa, nhưng sống nghèo khó chẳng đưa đi đến đâu. Phật giáo khônglên án giàu sang mà cũng không hề ca ngợi nghèo đói. Một đời sống tiết chế làđiều kiện cần thiết và tiên quyết cho sự tu tập để đạt tới giác ngộ. Để việc tutập có kết quả, Phật tử cần có một cơ sở vật chất tối thiểu và bình an tâmhồn.

Thay vì chỉ lo nối dõi tông đường, Phật tửcần nỗ lực khởi động tâm Bồ-đề, một hơi ấm của lòng từ bi cho tất cả chúng sinhvà muôn loài, vượt qua ý nghĩa hạn hẹp cá nhân gia đình, tộc họ, điạ phương hayđất nước. Tâm Bồ-đề là một chủng tử giác ngộ cần vun bồi và lưu truyền, nó cũngquý giá như các di sản văn hóa khác của nhân loại.

Quan niệm rằng quan hệ tình dục mà khôngsinh sản là bại hoại đạo đức, giá trị này cần được xét lại trong điều kiệnthặng dư dân số hiện nay. Vấn đề tình dục, sinh sản và đạo đức nên được thảoluận công khai và tách biệt ra, thay vì kết hợp lại để lên án. Nhiệm vụ chủ yếucủa quan hệ tình dục là cảm thông và gắn bó trong xã hội con người. Kim CangThừa mang tính Mật giáo, phương pháp tu học huyền bí, bao gồm tôn giáo thiênnhiên của Ấn Độ và Phật giáo, đặc biệt có tôn thờ giới tính và hình tượng namnữ yêu nhau. Nam và nữ được so sánh như trí thức và từ bi. Quan hệ vợ chồngđược xem như một tình bạn đồng môn, cùng tu tập và giúp nhau trong cuộc đời vớisự đối xử trân trọng và bình đẳng nhau, mà tình dục là một biểu tượng thiêngliêng, chứng minh cho sự gắn bó này.

Mối quan hệ văn hóa giữa Trung Hoa và ẤnĐộ được thảo luận trong chương 6. Nguyên bản Anh ngữ của bài này là “Passage to India”,đăng trong The New York Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December 2004.

Dù không luận giảitrực tiếp Phật giáo có thể đóng góp cho phát triển dân chủ tại nhiều nước trênthế giới. Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt tình thảo luận công khai trướcnhững bất đồng, sẵn sàng chấp nhận phê bình để sửa sai là một trong nhữngtruyền thống đặc sắc của Phật giáo mà thế giới có thể học hỏi và áp dụng vàonhững cải cách chánh trị trong tương lai.

Vì các giá trịPhật pháp có khả năng khai sáng mà tác phẩm mang lại cho người đọc và vì nhữngkiến thức Phật giáo mang tính cẩm nang mà các tác giả đã gửi gắm trong tác phẩmnày, tôi trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả trí thức gần xa. Hy vọngrằng tác phẩm này góp phần soi sáng những vấn đề thời đại mà tất cả chúng tađang quan tâm và tìm giải pháp.

Giác Ngộ, ngày28-09-2012

TT. Thích Nhật Từ

Tổng Biên tập

Tủ sách và Tạp chíĐạo Phật Ngày Nay

Quý Phật tử có thểmua sách tại phòng phát hành Đạo Phật Ngày Nay, 86 Nguyễn Chí Thanh, P. 3, Q.10, TP. HCM. ĐT: 083894121.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8117)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16382)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12392)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19813)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4408)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4303)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5000)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4235)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4222)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11542)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567