Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Thi Vương" thơ say viết về Phật Đản, Pháp Nạn

05/04/201322:25(Xem: 21723)
"Thi Vương" thơ say viết về Phật Đản, Pháp Nạn

“THI VƯƠNG” THƠ SAY

VIẾT VỀ PHẬT ĐẢN, PHÁP NẠN

Giác Đạo Dương Kinh Thành

Lịch sử luôn trao tận tay từng số phận thuận nghịch của duyên trần (biệt nghiệp) để từ đó hòa mình vào vận mạng chung của cộng nghiệp. Nhà thơ Vũ Hoàng Chuơng là một trong rất nhiều thí dụ điển hình đó mà bài thơ Lửa Từ Bi là điểm son sáng chói nhất.

Bài thơ ấy đã đốt cháynhững trang sách ố vàng của định kiến hẹp hòi khiến bóng đen, mặt tối của những tư tưởng tù túng, của những ngòi bút cong phải dần lùi xa, và cũng chính bài thơ làm nóngnhiều thế hệ văn đàn, để tất cả đều có chung cảm giác… ngơ ngác!

Vũ Hoàng Chương vốn từng có biệt danh Nhà Thơ Say mà! Say bất kể giờ giấc, ở đâu và trong trường hợp nào. Công thức hành say của nhà thơ này là 24/7/30. Đó không không phải là ngày tháng năm đâu, mà là say 24 giờ một ngày, uống 7 ngày trong tuần và uống 30 ngày trong một tháng!(theo:Bloggger choichoi81-Tamtay.vn).

Về một mặt khác, chính sự kiện Pháp nạn 2507 đã kéo nhà thơ Vũ Hoàng Chương từ văn đàn xa xôi bay bổng bên bàn rượu về thâm nhập với thực tại bằng nỗi đau chung của Phật Giáo VN. Và khi đã hòa vào vận mệnh chung của Pháp nạn thì tầm vóc thi ca của nhà thơ bỗng rực sáng hơn nhờ vào tinh thần dấn thân vô úy đó, dù lúc nào bên mình cũng có bầu rượu cay đắng của thế nhân.

Các tác phẩm mang dấu ần thời gian đó có thể tạm liệt kê sau: Thơ Say (1940), Mây (1943),Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp (1944), Thơ Lừa (1948), Rừng Phong (1954), Hoa Đăng (1959), Tâm Sự Kẻ Sang Tần (1961), Lửa Từ Bi (1963), Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm (1970), Đời Vắng Em Rối Say với Ai (1971), Chúng Ta Mất hết Chỉ Còn Nhau (1973).vv…

Như vậy Thơ say đứng đầu và mở ra cho ông một nét chuyên biệt trong sự nghiệp thơ ca. Biệt danh nhà thơ saytừ đó được ra đời.

Ruợu và thơ luôn gắn liền nhau mà Lý Bạch xưa kia từng triết lý “Ba Chén Thông Đạo Lớn/ Một Hồ Hợp Tự Nhiên”.Nhà thơ Vũ Hoàng Chương của chúng ta cũng xác định “Em Ơi Lửa Tắt Bình Khô Rượu/ Đời Vắng Em Rồi Say Với ai” (bài Đời Vắng Em Rồi). Đó là biệt nghiệp đời ông vậy.

Nhà thơ từng tốt nghiệp trường Albert Sarraut, từng theo học Đại Học Luật Hà Nội, từng theo học môn toán và từng đại diện văn đàn thi nhân Việt nam dự các hội nghị, liên hoan nước ngoài nhiều lần. Điều này có nghĩa là ông thuộc giới tây họctheo cách gọi thời bấy giờ và có đầy đủ điều kiện thuận lợi để bước vào cuộc sống Tâynhư thói thường thời mất nước. Ông lại đi ngược con đường ồn ào đó để rồi rẽ ngoặt, dùng kiến thức ấy dàn trải những nỗi niềm nhân thế qua ngòi bút thơ ca.

Năm 1964- Phật lịch 2508, Giáo Hội long trọng tổ chức kỷ niệm Đệ Nhất Chu Niên Pháp Nạn với nhiều chương trình có nội dung phong phú và điểm nhấn chính là lễ đài Phật Đản hoành tráng nhất chưa từng có ở Bến Bạch Đằng Sài Gòn.

Sự kiện này nhà thơ say Vũ Hoàng Chương sau Lửa Từ Biđã thả tâm tư mình vào sự kiện muôn thưở ấy bằng một bài thơ dài có tựa đề Trường Ca Ngày Phật Đản.

Bài thơ này như một hồi ức toàn cảnh về những tháng ngày đau thương và kiên cường của PGVN, trong còn có tám em đoàn sinh Oanh Vũ GĐPT của sự kiện đài phát thanh Huê. Bài thơ cũng còn là một bài “Văn tế”cho thế lực u minh mà Bồ Tát Quảng Đức đã có lời phát nguyện dùng thân mình làm đuốc soi sáng(Xin xem nội dung toàn bài thơ đính kèm).

Ngày Đệ Nhất Chu Niên Pháp Nạn ấy là cả một khoảng trời cao rộng cho hàng triệu tấm lòng người con Phật rũ bỏ bao phiền muộn để từ đó vươn lên kiến tạo thêm nhiều trang sử mới. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương tuy cũng chỉ là một chủng tử bên hàng triệu triệu chủng tử mang hạt giống Từ Bi khác, nhưng bằng thơ ca, Ông đã tạo nên điểm nhấn cho từng thời, từng sự kiện khác nhau giữa thời thế và với Phật giáo.

Vì vậy, trong những năm đất nước còn trong khói lửa chiến tranh và Phật giáo vẫn cón phải đương đầu với nhiều nghịch duyên mới, mỗi mùa Phật Đản khi ấy với người con Phật luôn là dịp để gởi gấm những tâm tình của mình tung lên khắp ba cõi.

Phật Đản 2516 (1972), nhà thơ sayVũ Hoàng Chương đã gởi gấm những tâm tình đó trong bài thơ Mừng Phật Đản 2516 như sau:

Hoa Nghiêm chợt tỉnh kiếp nào xưa
Cho tấm lòng xuân đẹp mấy bờ
Chuông khánh Hàn San, đêm nhiệt đới
Thuyền vào…tay ngọc rắc như mưa
Cây bên sông đứng hai hàng chữ
In xuống thời gian nghĩa bất ngờ
Vành vạnh trăng lên từ đáy nước
Hải triều vang dội hướng mây đưa.
Mây phong nếp áo ngàn xưa
Mở tung hương sắc hội mưa hoa này
Tròn duyên Thiên nữ chắp tay
Chúng sinh bao kiếp đọa đày sạch trơn.

Thủ bút và chữ ký của tác giả

Năm 1976 nhà thơ say Vũ Hoàng chương của chúng ta đã lặng lẽ từ giã thế gian này giữa lúc bộn bề lo toan cơm áo, bỏ lại sau lưng nhiều luyến tiếc, bởi nếu ông còn sống có lẽ hôm nay Kỷ Niệm 50 Năm Pháp Nạn PGVN có sự đóng góp tiếng nói của chính mình vào đại cuộc, để thế hệ Phật tử kế thừa không ngỡ ngàng với một nhà thơ saymà sao mặn mòi đến Phật giáo, đến Phật Đản hằng năm như vậy.

Bài viết này xin được kết thành một vòng hoa, thành kính tưởng niệm hương linh nhà thơ Vũ Hoàng Chương, hương linh nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ nhân kỷ niệm 50 năm Pháp nạn PGVN - Những người làm văn hóa văn nghệ PG khi sống biết làm “nóng” thi đàn, biết dậy màu hoa đạo nhưng khi ra đi lại lặng lẽ …không ngờ!

Thành Kính!

Giác Đạo Dương Kinh Thành
Ý kiến bạn đọc
01/10/201614:43
Khách
người đang ở miền cực lạc mà hình hài của ông như đang hiển hiện đâu đây quanh ta!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/10/2013(Xem: 64022)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
19/10/2013(Xem: 13186)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 40774)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 30903)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 26474)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 41923)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
11/10/2013(Xem: 11582)
Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau: _ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa: + Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
26/06/2013(Xem: 4819)
Éric Rommeluère là một nhà sư ngườiPháp sinh năm 1960, khởi sự tập thiền từ năm 1978 dưới sự hướng dẫn của thiềnsư Teisen Deshimaru. Một năm sau ông xin quy y và hai năm sau đó thì ông chínhthức xuất gia và thụ phong tỳ-kheo. Éric Rommeluère ngày nay đã trở thành một vịthiền sư rất năng động
26/05/2013(Xem: 8036)
ự gia hộ ở đây, theo người viết, mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, khi ta tu tập theo lời Phật dạy có an lạc, thì sự an lạc này có thể nói là sự gia hộ hay sự cứu độ của Đức Phật. Thứ hai, khi ta nhận được niềm tin và cảm xúc thánh thiện từ hành động và nhân cách cao thượng của Đức Phật rồi hành động tốt đẹp trong cuộc đời, thì khi đó ta có thể nói rằng Đức Phật đã gia hộ cho ta.
13/05/2013(Xem: 3866)
Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu. Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]