Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật Và Hôn Nhân

17/02/201205:00(Xem: 3489)
Đạo Phật Và Hôn Nhân
ĐẠO PHẬT VÀ HÔN NHÂN
K. Sri Dhammananda Maha Thera
Thích nữ Tịnh Quang dịch

Trong Phật giáo, hôn nhân được xem là sự quyết địnhhoàn toàn thuộc về riêng tư, cá nhân, và không phải là nhiệm vụ tôn giáo.

Hôn Nhân

Hôn nhân là một quy ước xã hội, một thể chế được tạo nên bởi con người vì sự thiết thực và hạnh phúc của con người, để phân biệt xã hội loài người từ đời sống động vật và duy trì trật tự và hòa hợp trong quá trình sinh sản. Mặc dù các kinh điển Phật giáo không nói gì đến chủ đề của chế độ một vợ một chồng hoặc chế độ đa thê, các Phật tử được khuyên nên giới hạn bản thân để chỉ có một vợ. Đức Phật không đặt quy tắc về cuộc sống hôn nhân nhưng đã đưa ra lời khuyên cần thiết về việc làm thế nào để sống một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Có những luận giải phong phú trong các bài giảng của Đức Phật đó là sự khôn ngoan và khích lệ lòng trung thành với một vợ và không nên ham muốn và chạy theo người phụ nữ khác. Đức Phật nhận ra rằng một trong những nguyên nhân chính của sự đổ vỡ của hôn nhân là sự liên hệ của đàn ông với phụ nữ khác (Kinh Parabhava). Con người phải nhận ra những khó khăn, thử thách và khổ nạn mà họ phải chịu chỉ để duy trì một người vợ và một gia đình. Chế độ đa thê phải đối mặt với nhiều tai họa. Biết được yếu đuối của bản chất con người, Đức Phật đã thành lập một trong những giới luật để hướng dẫn Phật tử không phạm tội ngoại tình hoặc hành vi sai trái về tình dục.

Các quan điểm của Phật giáo về hôn nhân là rất tự do: trong Phật giáo, hôn nhân được xem là sự quyết định hoàn toàn thuộc về riêng tư, cá nhân,và không phải là nhiệm vụ tôn giáo.Trong Phật giáo không có giới điều về việc thuyết phục một người kết hôn, chỉ có giáo điều cho đời sống của một người độc thân hoặc hướng dẫn một đời sống hoàn toàn thanh tịnh. Nó không có giới điều đối với Phật tử như là phải cần sinh đẻ hoặc điều chỉnh số lượng dân số. Phật giáo yêu cầu cá nhân tự do quyết định cho bản thân đối với tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân. Điều này có thể là lý do tại sao các tu sĩ Phật giáo không lập gia đình, vì không có điều luật dành cho hôn nhân hoặc chống lại hôn nhân. Lý do rất rõ ràng rằng vì mục đích phục vụ cho nhân loại, các nhà sư đã chọn một đời sống độc thân. Những người từ bỏ cuộc sống thế gian tự nguyện bước ra khỏi cuộc sống hôn nhân để thoát khỏi nhiều sự vướng bận của thế gain hầu mong giữ tâm thanh tịnh và cống hiến cuộc đời của họ chỉ để phục vụ mọi người và giúp người khác đạt được sự giải thoát tâm. Mặc dù các tu sĩ Phật giáo không cử hành long trọng đối với một buổi lễ kết hôn, họ thực hiện nghi lễ tôn giáo để chúc phúc cho các cặp vợ chồng.

Ly hôn

Ly thân hoặc ly dị không bị cấm trong Phật giáo, tuy nhiên điều này hiếm khi phát sinh nếu các huấn thị của Đức Phật đã được thực hiện một cách nghiêm túc. Đàn ông và phụ nữ phải có sự tự do riêng biệt nếu họ thực sự không thể sống chung với nhau. Ly thân là thích hợp hơn để tránh khỏi cuộc sống gia đình ngột ngạt trong một thời gian dài. Xa hơn Đức Phật thường khuyên nhắc cho người đàn ông già không nên cưới những cô vợ trẻ vì người già và trẻ khó có thể thích hợp, có thể dẫn đến vấn đề quá mức, bất hòa và sự đổ vỡ (Kinh Parabhava).

Một xã hội phát triển thông qua một mạng lưới quan hệ lẫn nhau giữa các mối tương quan và tùy thuộc. Mỗi cá nhân là một sự nối kết toàn bộ trái tim để hỗ trợ và bảo vệ những người khác trong một nhóm hay cộng đồng. Hôn nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong mạng lưới mạnh mẽ của những mối quan hệ về hỗ trợ và bảo vệ. Một cuộc hôn nhân tốt cần hình thành và phát triển dần dần từ sự hiểu biết và không xung khắc, từ lòng trung thành đúng nghĩa và không chỉ là sự bao dung tuyệt đối. Thể chế hôn nhân cung ứng một cơ sở tốt cho sự phát triển của văn hóa, một hiệp hội thú vị của hai cá nhân được nuôi dưỡng, và được thoát khỏi sự đơn độc, cô quạnh và sợ hãi. Trong hôn nhân, mỗi đối tác phát triển một vai trò bổ sung, hiến tặng sức mạnh và thúc đẩy đạo đức với nhau, mỗi người biểu hiện ý thức hỗ trợ và đánh giá cao các kỹ năng của người khác. Điều này không phải là sự suy nghĩ về người đàn ông hay phụ nữ ở cấp trên mình - người này là sự bổ sung cho người kia, một mối quan hệ đối tác bình đẳng mới toát lên được sự dịu dàng, khoan dung, bình tĩnh và sự cống hiến đối với ý nghĩa của hôn nhân.

Ngừa Thai, Phá Thai và Tự Sát

Mặc dù con ngườicó tự do để lên kế hoạch gia đình của mình theo hoàn cảnhcủa riêng mình, phá thai là không chính đáng.

Không có lý do cho Phật tử để chống lại sự giới hạn sinh đẻ. Họ có quyền tự do xử dụng bất kỳ các biện pháp cũ hoặc hiện đại để ngăn ngừa thụ thai. Những người phản đối ngừa thai bằng cách nói rằng đó là chống lại pháp luật của Thiên Chúa khi ngừa thai, phải nhận ra rằng khái niệm của họ về vấn đề này là không hợp lý. Trong việc kế hoạch sinh đẻ được thực hiện là để ngăn chặn sự bước vào một thực thể. Không có tham gia vào sự sát hại và không có nghiệp bất thiện. Nhưng nếu họ có hành động phá thai, hành động này là sai lầm bởi vì nó liên quan đến việc lấy đi hoặc phá hủy một cuộc sống có thể nhìn thấy hoặc vô hình. Do đó, phá thai là không chính đáng.Theo giáo lý của Đức Phật, năm điều kiện phải có mặt để tạo thành hành động tà ác giết người. Đó là:

- Một sinh vật
- Ý thức hay nhận biết nó là một sinh vật
- Ý định giết chết
- Tìm cách để giết, và
- Hậu quả chết

Khi một phụ nữ nhân thức, có một chúng sanh trong tử cung của mình và điều này đáp ứng điều kiện đầu tiên. Sau một vài tháng, cô biết rằng có một cuộc sống mới trong phạm vi của mình và điều này đáp ứng các điều kiện thứ hai. Sau đó vì một số lý do nào khác, cô muốn từ bỏ sinh vật ở trong bụng mình. Vì vậy, cô bắt đầu tìm kiếm cho một vị y sĩ phá thai để làm công việc theo cách này, điều kiện thứ ba là đã hoàn thành. Khi y sĩ phá thai làm công việc của mình, điều kiện thứ tư được quy định và cuối cùng,sinh vật bị giết vì hành động đó. Vì vậy, tất cả các điều kiện có mặt. Với cách này, tạo ra một hành vi phạm giới đầu tiên "bất sát”, và điều này đồng nghĩa với việc giết chết một con người. Theo Phật Giáo, không có cơ sở để nói rằng chúng tôi có quyền lấy đi cuộc sống của người khác.

Trong một số trường hợp nhất định, mọi người cảm thấy bắt buộc phải làm điều đó để thuận tiện với hoàn cảnh của họ. Nhưng họ không nên biện minh cho hành động phá thai bằng cách nào đó, hoặc họ sẽ phải đối mặt với một số loại kết quả nghiệp báo xấu. Trong một số quốc gia, phá thai là hợp pháp hóa, nhưng điều này là để khắc phục một số vấn đề. Nguyên tắc tôn giáo không bao giờ đầu hàng đối với niềm vui của con người. Họ đại diện cho lợi ích của toàn nhân loại.


Tự tử

Tước đi cuộc sống của chính mình trong bất kỳ trường hợp nào là sai về mặt đạo đức và tinh thần. Từ bỏ cuộc sống của mình với sự thất vọng hay tuyệt vọng chỉ gây thêm đau khổ lớn hơn. Tự tử là một cách hèn nhát để kết thúc những vấn đề của cuộc sống. Một người không thể tự tử nếu tâm trí của mình trong sạch và yên tĩnh. Nếu rời khỏi thế giới này với một tâm trạng bối rối và thất vọng, thì không chắc rằng y sẽ được tái sinh một lần nữa ở trong tình trạng tốt hơn. Tự tử là một hành động bất thiện hay vụng về vì nó được khuyến khích bởi một tâm đầy hận thù, tham đắm và si mê. Những người tự tử đã không học được cách đối mặt với vấn đề của họ, làm thế nào để đối mặt với sự thật của cuộc sống, và làm thế nào để xử dụng tâm trí của họ một cách tốt hơn. Những người như vậy đã không thể hiểu được bản chất của cuộc sống và những điều kiện thế gian.Một số người hy sinh cuộc sống của mình cho những gì họ cho là như là một lý do chính đáng và cao quý. Họ có cuộc sống riêng của họ bằng các phương pháp như tự đâm, tự bắn, hoặc chết đói… Hành động như vậy có thể được phân loại là dũng cảm và can đảm. Tuy nhiên, từ quan điểm của Phật giáo, các hành vi đó không được tha thứ. Đức Phật đã chỉ ra rõ ràng rằng những trạng thái tự tử của tâm dẫn đến đau khổ hơn nữa.

Trích từ: E Book 3D (dạng sách đọc): Sự Quyến Rũ Của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới - Thích nữ Tịnh Quang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2013(Xem: 26550)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 22621)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 36062)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
11/10/2013(Xem: 8532)
Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau: _ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa: + Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
26/06/2013(Xem: 4004)
Éric Rommeluère là một nhà sư ngườiPháp sinh năm 1960, khởi sự tập thiền từ năm 1978 dưới sự hướng dẫn của thiềnsư Teisen Deshimaru. Một năm sau ông xin quy y và hai năm sau đó thì ông chínhthức xuất gia và thụ phong tỳ-kheo. Éric Rommeluère ngày nay đã trở thành một vịthiền sư rất năng động
26/05/2013(Xem: 6011)
ự gia hộ ở đây, theo người viết, mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, khi ta tu tập theo lời Phật dạy có an lạc, thì sự an lạc này có thể nói là sự gia hộ hay sự cứu độ của Đức Phật. Thứ hai, khi ta nhận được niềm tin và cảm xúc thánh thiện từ hành động và nhân cách cao thượng của Đức Phật rồi hành động tốt đẹp trong cuộc đời, thì khi đó ta có thể nói rằng Đức Phật đã gia hộ cho ta.
13/05/2013(Xem: 3281)
Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu. Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.
05/05/2013(Xem: 3527)
Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đềhiện đại” là một tuyển tập các bài viết của các giáo sư Phật học và các nhàkhoa học nổi tiếng thế giới về các vấn đề thời đại, dưới cái nhìn Phật giáo.Tiến sĩ Đỗ Kim Thêm đã dày công sưu tầm và phiên dịch các bài nghiên cứu đặcsắc và có giá trị nghiên cứu này, góp phần làm phong phú nền Phật học Việt Nam.
04/05/2013(Xem: 3207)
Có thể nói rằng một trong những học thuyết nổi bật của Phật giáo Đại thừa là học thuyết Bồ-tát, mặc dù khái niệm Bồ-tát đã xuất hiện trước đó trong Phật giáo Theravāda. Với việc xây dựng hình tượng Bồ-tát lý tưởng đi cùng với những nguyên tắc tu tập và thệ nguyện cứu độ chúng sanh, Phật giáo Đại thừa thể hiện là một tôn giáo đề cao tinh thần nhập thế tích cực.
30/04/2013(Xem: 4496)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567