Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phương Hướng Của Nền Giáo Dục Phật Pháp

15/02/201222:52(Xem: 3879)
Phương Hướng Của Nền Giáo Dục Phật Pháp
PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NỀN GIÁO DỤC PHẬT PHÁP
Bhikkhu Bodhi
Thích nữ Tịnh Quang dịch

Lý tưởng nhất, giáo dục là công cụ chủ yếu của việc tăng tiến con người, cần thiết cho việc thay đổi trẻ con mù chữ thành một người lớn trưởng thành và có trách nhiệm. Tuy nhiên, ngày nay ở khắp mọi nơi, cả trong các nước phát triển và các nước đang phát triển, chúng ta có thể thấy rằng hình thức giáo dục đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Sự giảng dạy lớp học đã trở thành thông lệ và được vỗ về rằng trẻ em thường cân nhắc việc học và thực tập trong sự kiên nhẫn chứ không phải là một cuộc mạo hiểm trong học tập. Ngay cả những học sinh sáng dạ và tận tâm nhất vẫn dễ dàng trở nên bất an, và đối với nhiều học sinh chỉ có các tuyến đường thoát khỏi hấp dẫn nằm dọc theo những con đường nguy hiểm của ma túy, thử nghiệm tình dục, và vụ nổ bạo lực vô nghĩa. Giáo viên cũng tìm thấy chính mình trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan, không hài lòng với hệ thống mà họ phục vụ nhưng không thể nhìn thấy một giải pháp có ý nghĩa để thay thế nó.

Một lý do chính cho tình cảnh đáng buồn của vấn đề này là sự mất phương hướng về những mục tiêu thích hợp của giáo dục. Từ "Giáo dục" theo nghĩa đen có nghĩa là "mang lại", nó chỉ ra rằng nhiệm vụ thực sự của tiến trình này là để rút tâm khỏi tiềm năng bẩm sinh của chính nó cho sự hiểu biết. Thúc đẩy học tập, biết và hiểu là một đặc điểm cơ bản của con người, tâm trí của chúng ta ở bên trong như đói và khát là với cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, trong thế giới hỗn loạn hiện nay, sự khao khát học hỏi này thường bị biến dạng bởi sự méo mó đạo đức tương tự và tác động vào xã hội rộng lớn hơn. Thật vậy, cũng giống như cảm giác ngon miệng đối với thực phẩm lành mạnh được khai thác bởi ngành công nghiệp thức ăn nhanh với các món ăn ngon nhẹ không có giá trị dinh dưỡng, cũng vậy, trong các trường học của chúng ta, tâm trí của giới trẻ bị tước đoạt nguồn dinh dưỡng mà chúng cần cho sự phát triển lành mạnh. Với danh xưng của giáo dục, học sinh được học qua các khóa học giảng dạy tiêu chuẩn nhằm mục đích tạo cho họ trở thành những người đầy tớ hiệu quả của một hệ thống xã hội hạ thấp phẩm giá. Trong khi đó giáo dục có thể là cần thiết để đảm bảo ổn định xã hội, nó ít thể hiện kết thúc cao hơn của học tập, sự chiếu sáng của tinh thần với ánh sáng của sự thật và sự tốt đẹp.

Một nguyên nhân chính về các vấn đề giáo dục của chúng ta nằm trong việc "thương mại hóa" giáo dục. Mô hình tăng trưởng công nghiệp của xã hội mà ngày nay là mở rộng thử nghiệm của nó vào những xã hội phần lớn là nông nghiệp của Nam và Đông Nam Á, nhu cầu mà hệ thống giáo dục chuẩn bị cho sinh viên là để trở thành những công dân sản xuất trong một trật tự kinh tế được quản lý bằng sự thúc đẩy để tăng lên lợi nhuận. Như thế quan niệm về mục đích của giáo dục là khá khác biệt từ sự phù hợp với những nguyên lý Phật giáo. Hiệu quả thực tế chắc chắn có vị trí của nó trong giáo dục Phật giáo, vì sự sâu sắc của Phật giáo là con đường trung đạo- nhận thức rằng khát vọng tinh thần cao cả nhất của chúng ta phụ thuộc vào một cơ thể khỏe mạnh và một xã hội vật chất an toàn. Nhưng đối với Phật giáo, lĩnh vực thực tế của giáo dục phải được hôi nhập; với các điều kiện khác được thiết kế để mang lại những tiềm năng của bản chất con người với sự trưởng thành trong cách nhìn bởi Đức Phật. Trên tất cả, một chính sách giáo dục được hướng dẫn bởi các nguyên tắc Phật giáo phải nhằm mục đích truyền đạt những giá trị giống như để truyền đạt thông tin. Nó phải được hướng dẫn, không chỉ đối với sự phát triển các kỹ năng xã hội và thương mại, nhưng hướng đến sự nuôi dưỡng học sinh bằng những hạt giống cao quí của tâm hồn.

Từ khi xã hội thế tục ngày nay chỉ ra rằng thể chế giáo dục là tập trung vào việc chuẩn bị học sinh cho sự nghiệp tương lai của họ, trong một quốc gia Phật giáo như Sri Lanka trách nhiệm chính trong việc truyền đạt các nguyên tắc của Phật pháp cho các sinh viên tự nhiên giảm xuống ở các trường Dhamma. Giáo dục Phật giáo trong các trường học Phật pháp cần được quan tâm trên tất cả với sự chuyển hóa về đặc tính. Khi đặc tính của một người được rèn đúc bởi các giá trị, và các giá trị được truyền đạt bởi những lý tưởng truyền cảm hứng, công việc đầu tiên mà các nhà giáo dục Phật giáo phải đối mặt là để xác định những lý tưởng của hệ thống giáo dục của họ. Nếu chúng ta hướng về những lời dạy của Đức Phật trong việc tìm kiếm những lý tưởng thích hợp với một đời sống phật tử, chúng ta tìm thấy năm phẩm chất mà Đức Phật thường đề cập như là những dấu hiệu tiêu chuẩn của đệ tử kiểu mẫu dù tu sĩ hay là cư sĩ. Những phẩm chất này là đức tin, giới hạnh, lòng quảng đại, học tập, và khôn ngoan. Hai trong năm: đức tin và lòng quảng đại có liên quan chủ yếu đến trái tim: chúng có liên quan với sự thuần hóa lĩnh vực tình cảm của bản chất con người. Hai điều liên quan đến trí tuệ: học tập và khôn ngoan. Điều thứ hai: giới hạnh hoặc đạo đức, tham gia đối với cả hai lĩnh vực của nhân cách: Ba giới đầu tiên kiêng giết hại, trộm cắp và lạm dụng tình dục- chế ngự những cảm xúc; giới không dối trá và dùng chất gây say hỗ trợ phát triển sự sáng suốt và tính trung thực cần thiết để thực hiện chân lý. Do đó, giáo dục Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa song song về đặc tính con người và sự thông minh của họ, duy trì cả hai trong sự cân bằng và đảm bảo mà cả hai được đưa ra thực hiện.

Toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo phải được bắt nguồn từ đức tin (saddha) - niềm tin vào Tam Bảo, và trên tất cả, Đức Phật là bậc hoàn toàn giác ngộ, bậc thầy và vị hướng dẫn tối cao đối với đời sống chân chánh và hiểu biết chân chánh. Dựa trên đức tin này, học trò phải được truyền cảm hứng để trở nên hoàn thành trong đức hạnh (sila) bằng cách làm theo các hướng dẫn đạo đức được nêu ra bằng năm giới. Họ phải đến để biết giới, để hiểu được lý do cho việc quan sát chúng, và biết làm cách nào để áp dụng chúng trong các trường hợp khó khăn của cuộc sống con người ngày nay. Quan trọng nhất, họ cần phải đánh giá cao những đức tính tích cực mà các giới này đại diện: lòng tốt, sự lương thiện, sự tinh khiết, trung thực, và sự tỉnh táo tinh thần. Họ cũng phải có tinh thần rộng lượng và tự hy sinh (caga), vì vậy cần thiết đối với việc khắc phục tính ích kỷ, tham lam, và thu hẹp đối với tự tiến bộ mà nó nổi bật trong xã hội ngày nay. Phấn đấu để thực hiện lý tưởng của lòng quảng đại là để phát triển lòng từ bi và sự xả ly, những phẩm chất vốn có của Đức Phật trong suốt toàn bộ sự nghiệp của ngài. Để hiểu rằng nó là sự hợp tác lớn hơn các đối thủ, tự hy sinh thể hiện hơn tự phóng đại, và phúc lợi thực sự của chúng ta đạt được xuyên qua sự hài hòa và thiện chí hơn là bằng cách khai thác và thống trị người khác.

Đức hạnh thứ tư và thứ năm hoạt động chặt chẽ với nhau. Bởi việc học tập (suta) có nghĩa là một kiến ​​thức rộng về kinh văn Phật giáo và phải đạt được bằng cách đọc nhiều và nghiên cứu liên tục. Nhưng chỉ học tập là không đủ. Kiến thức chỉ đáp ứng đúng mục đích của nó khi nó phục vụ như một bàn đạp cho sự khôn ngoan (panna), cá nhân phải trực tiếp quán chiếu sâu sắc vào sự thật của Giáo pháp. Dĩ nhiên, sự khôn ngoan cao hơn là hoàn thành Bát chánh đạo vốn không nằm trong tên miền của trường Phật pháp. Sự khôn ngoan này phải được phát sinh bởi phương pháp huấn luyện tinh thần có phương pháp bằng sự yên tĩnh và cái nhìn sâu sắc-hai cánh của thiền Phật giáo. Nhưng giáo dục Phật giáo có thể đi xa trong việc đặt nền móng cho sự khôn ngoan này bằng việc làm rõ các nguyên tắc được xuyên thủng qua cái nhìn sâu sắc. Sự học tập và trí tuệ đan xen chặt chẽ, cái trước cung ứng nền tảng cho cái sau. Trí tuệ phát sinh bằng cách làm việc có hệ thống đối với các ý tưởng và nguyên tắc đã học được thông qua sự nghiên cứu vào cơ cấu của tâm thức, đòi hỏi sự phản ánh sâu, thảo luận thông minh, quán sát sắc bén.

Giáo dục là trí tuệ mà Đức Phật đã thành lập là công cụ trực tiếp đối với sự giải thoát cuối cùng, như là chìa khóa để mở những cánh cửa đi vào sự Bất tử, và người hướng dẫn cũng không thể sai lầm để thành công trong việc đáp ứng những thách thức của cuộc sống trần tục. Vì vậy, trí tuệ là vương miện và đỉnh cao của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo, và tất cả các bước sơ bộ trong một hệ thống giáo dục Phật giáo cần được hướng tới việc nở hoa của đức hạnh cao tuyệt này. Với thềm bậc này mà giáo dục đạt đến sự hoàn mãn, đó là trở thành ánh sáng trong ý nghĩa xác thực nhất và sâu sắc nhất, Như Đức Phật đã thốt lên trong đêm giác ngộ của ngài: "Tại đây phát sinh trong ta tầm nhìn, kiến giải, trí tuệ, sự hiểu biết, và ánh sáng."

Trích từ: E Book 3D (dạng sách đọc): Sự Quyến Rũ Của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới - Thích nữ Tịnh Quang


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 6652)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4942)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51676)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9285)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20814)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7782)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12142)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15148)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3968)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567