Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đóng Góp Của Phật Giáo Vào Phúc Lợi Xã Hội Ở Úc

15/09/201100:55(Xem: 4329)
Đóng Góp Của Phật Giáo Vào Phúc Lợi Xã Hội Ở Úc
ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO
vào phúc lợi xã hội ở Úc

Patricia Sherwood
(Phân khoa Nhân loại học xã hội, Đại học Edith Cowan)

Bài viết này phác thảo những kết quả nghiên cứu được thực hiện vào năm 2000 về những đóng góp của các tổ chức Phật giáo vào phúc lợi xã hội ở Úc. Việc nghiên cứu này minh chứng rằng, Phật giáo Úc rõ ràng là tôn giáo nhập thế, không chỉ ở trong thực tiễn, mà còn xuất phát từ quan điểm các thành viên của những tổ chức Phật giáo, họ cho rằng sự thực hành như vậy luôn là điều quan yếu đối với những tổ chức Phật giáo của họ và không phải là một hiện tượng mới.

54 trong số 319 tổ chức Phật giáo ở Úc (xấp xỉ 17%) được chọn làm đối tượng nghiên cứu. Số lượng những tổ chức Phật giáo từ các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Phật giáo Tây Tạng được đưa ra làm mẫu nghiên cứu là xấp xỉ bằng nhau, với tổng số 96% các tổ chức đã dấn thân tích cực trong những hoạt động phúc lợi xã hội và giáo dục.

Một bảng câu hỏi mở đã được sử dụng với mỗi tổ chức để thăm dò những hoạt động xã hội dấn thân mà các tổ chức đang thực hiện. Các vị đại diện của các tổ chức cũng được hỏi lý do về công việc dấn thân xã hội của họ, và họ có thấy công việc đó như là một sự thực hành tương đối mới trong những tổ chức của họ hay không, hay là một sự thực hành cốt yếu được tiếp nối tương tục ở trong truyền thống Phật giáo?

Có một sự tranh luận đáng kể về việc Phật giáo nhập thế có phải là một hiện tượng mới được vun trồng ở phương Tây, hay nó là một bộ phận của truyền thống Phật giáo, nhưng bây giờ được phát triển theo một cách thức rõ ràng ở phương Tây. Kraft đã đặt ra những câu hỏi trong bài viết “Hòa bình đang được thiết lập: Tinh thần nhập thế ở Phật giáo phương Tây” về cách thức Phật giáo được truyền bá đến phương Tây, sẽ dấn thân vào công việc phúc lợi xã hội như thế nào. Trong lời giới thiệu của mình cho tuyển tập những bài tiểu luận của Eppsteiner do những người nhập thế có ảnh hưởng trong Hiệp hội Hòa bình của Phật giáo (Buddhist Peace Fellowship) viết, và được xuất bản với tên gọi là “Con đường Từ bi”, Kraft cho rằng những truyền thống Phật giáo nhập thế đã luôn tiềm tàng trong Phật giáo từ thời Đức Phật. Ông tiếp tục thảo luận tỉ mỉ tại sao Phật giáo nhập thế ở phương Tây đã làm cho những phẩm chất này hưng thịnh:

“Những phẩm chất mà chúng được thừa kế ở nơi môi trường Á châu tiền hiện đại… bây giờ có thể thực hiện qua việc chuyển hướng của Phật giáo đến phương Tây, nơi tình cảm đạo đức, chủ nghĩa tích cực xã hội và chủ nghĩa quân bình được nhấn mạnh”.

Tuy nhiên, trong quyển sách gần đây của mình, “Phật giáo nhập thế ở phương Tây”, Queen nhấn mạnh rằng, Phật giáo nhập thế chỉ xuất hiện trong bối cảnh gần đây liên quan đến những quan tâm toàn cầu về nhân quyền và công bằng xã hội. Ông định nghĩa Phật giáo nhập thế như là sự áp dụng Phật pháp vào việc giải quyết những vấn đề xã hội. Yarnall, trong bài viết “Phật giáo Nhập thế: Mới và Phát triển? Được làm ở Hoa Kỳ bằng nguyên liệu châu Á”, tóm tắt một cách sắc sảo hai luận điểm căn bản trong số các học giả về Phật giáo nhập thế. Một nhóm, chẳng hạn như Queen, người mang danh xưng là “những nhà cách tân” đề xuất rằng, mặc dù có thể có những lý thuyết liên quan đến chính trị xã hội tiềm tàng trong Phật giáo Nguyên thủy, nhưng chúng đã không được phát triển, mãi đến khi Phật giáo tiếp xúc với xã hội phương Tây hiện đại. Sự thực, Phật giáo nhập thế có những khác biệt quan trọng so với Phật giáo truyền thống.

Nhóm khác, mà ông gọi là “những nhà truyền thống”, đã không bao giờ chấp nhận một sự phân đôi Phật giáo thành hai lĩnh vực tâm linh và xã hội; và từ quan điểm này, Phật giáo với hai trụ cột trí tuệ và từ bi, tất yếu liên quan đến hạnh phúc con người cả ở phương diện cá nhân và xã hội. Những hình thức Phật giáo hiện đại về bản chất là tiếp giao với những hình thức truyền thống, bất chấp vũ đài xã hội và ngữ cảnh văn hóa khác biệt. Quan điểm này của những nhà truyền thống được những Phật tử trong các tổ chức Phật giáo ở Úc ủng hộ mạnh mẽ. Họ ủng hộ quan điểm rằng, những hoạt động phúc lợi xã hội luôn là phần cốt yếu ở trong Phật giáo, mặc dù truyền thống văn hóa có thể khác nhau. Họ không tách sự giác ngộ ra khỏi nhập thế. Trong kinh nghiệm của họ, điều đó là bất nhị. Giác ngộ và nhập thế, công việc bên trong và công việc bên ngoài, không được quan niệm như một sự tách rời, mà, thay vì vậy, hỗ tương và gắn kết với nhau. Ken Jones ủng hộ quan điểm này, biện luận thêm rằng, trong triết học và thực hành của Phật giáo không thể có sự tách biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Quan điểm của Bucknell về Phật giáo nhập thế ở Úc, mặc dù là bài viết đầu tiên về chủ đề này, có khuynh hướng xem những hoạt động nhập thế nói chung là ngẫu nhiên đối với những tổ chức Phật giáo, đặc biệt đối với những tổ chức không phải của người nhập cư. Ông cho rằng, những tổ chức Phật giáo cùng sắc tộc đóng vai trò như là những trung tâm phúc lợi và văn hóa chủ yếu dành cho những cộng đồng người nhập cư. Những kết quả của việc nghiên cứu bao quát này về các tổ chức Phật giáo ở Úc trong các lĩnh vực hoạt động xã hội dấn thân không ủng hộ quan điểm này của Bucknell.

Có một sự dấn thân quy mô lớn trong lĩnh vực phúc lợi xã hội và hoạt động giáo dục của 96% trong số các tổ chức Phật giáo, của cả những người nhập cư và người bản xứ. Trong đa số các trường hợp, đóng góp của những tổ chức Phật giáo thuộc những người nhập cư vượt ra ngoài cộng đồng văn hóa hay sắc tộc của họ. Quan điểm của Bucknell là không chính xác, rằng có hai loại hoạt động Phật giáo nhập thế ở Úc: những hoạt động ở lĩnh vực chăm sóc người bệnh và những hoạt động ủng hộ cứu tế xã hội ở hải ngoại và những đề án phát triển. Mặc dù hai lĩnh vực này là điển hình trong số những hoạt động nhập thế ở Úc, phạm vi bao quát và rộng rãi hơn lại thuộc về chín lĩnh vực hoạt động được liệt kê bên dưới.

Trong bài viết này, tôi định nghĩa Phật giáo nhập thế là sự thực hành Phật giáo mà nó bao hàm một sự đóng góp giúp giải thoát nỗi đau khổ của chúng sanh, gồm cả chính chúng ta. Quan điểm này được nhà cải cách người Thái, ông Sivaraksa, giảng giải một cách thuyết phục khi nói về bản chất của Phật giáo, ông cho rằng: “nó có nghĩa là trách nhiệm sâu sắc và sự chuyển đổi con người. Để phụng sự, chúng ta phải trở nên vô ngã hơn và giảm bớt sự vị kỷ. Để thực hiện điều này, chúng ta càng phải có trách nhiệm đạo đức hơn trong xã hội. Đây là điều cốt tủy của tôn giáo, từ thời xa xưa cho đến hiện tại”.

Tôi chọn lựa và tập trung vào lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Đóng góp phúc lợi xã hội của Phật giáo ở Úc là bao quát và có thể được phân thành chín lĩnh vực sau:

1. Giáo dục cho người lớn trong cộng đồng.

2. Giáo dục trẻ em.

3. Hỗ trợ người bệnh trong các bệnh viện và các bệnh viện dành cho người hấp hối.

4. Hỗ trợ bệnh nhân và người sắp qua đời ở trong cộng đồng và chăm sóc bệnh nhân nan y.

5. Thăm hỏi tù nhân.

6. Hỗ trợ người nghiện ma túy.

7. Gây quỹ cho người nghèo khó (cả ở Úc và hải ngoại).

8. Diễn thuyết về nhân quyền và chống áp bức.

9. Tiến hành những hoạt động từ bi dành cho các loài động, thực vật.

Trên 96% trong số những tổ chức Phật giáo được nghiên cứu ở Úc là dấn thân vào những chương trình giáo dục cộng đồng. Những trường hợp khác nhau được lựa chọn để minh chứng cho phạm vị các hoạt động và những tổ chức liên quan. Đây không phải là một sự liệt kê hết mọi khía cạnh. Tổ chức Những người bạn của Giáo hội Phật giáo phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order), với các trung tâm ở Melbourne, Sydney và Toowoomba ở Queensland, thực hiện những chương trình giáo dục và giảng dạy rất toàn diện. Họ tổ chức những buổi pháp thoại công cộng để dạy về nguyên nhân và cách làm vơi bớt khổ đau, và những chương trình dành cho sức khỏe tinh thần, giảng dạy những kỹ năng chung về thiền định và kiểm soát sự căng thẳng. Chi nhánh Toowoomba cũng tổ chức một chương trình dạy võ công cộng để đẩy mạnh giáo dục sức khỏe hình thể.

Tổ chức Quốc tế Phật Quang Sơn, với các chi nhánh ở Wollongong, Perth, Sydney, Brisbane và Melbourne, cũng thực hiện các hoạt động cộng đồng giúp phát triển những tư tưởng cao thượng, gồm các pháp thoại, thiền định và những chương trình phát triển. Những chương trình giáo dục văn hóa gồm có cắm hoa, thư pháp và các lớp dạy nấu ăn chay. Ngôi chùa tại Perth đã thực hiện một loạt các pháp thoại công cộng và các nhóm thảo luận về đạo Đức Phật giáo. Những buổi thảo luận này bao gồm việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức nan giải như phá thai, ly hôn, đồng tính, tự tử, trầm cảm và nghiện ma túy. Mục đích là để phát triển những gì Đức Phật gọi là những “phương tiện thiện xảo” liên quan đến đời sống mà chúng giúp làm tăng trưởng hạnh phúc và giảm thiểu khổ đau của con người trong ánh sáng giáo lý Tứ Diệu Đế.

Chi nhánh Brisbane chứng minh một cách rõ ràng rằng, những tổ chức của người nhập cư không chủ yếu phục vụ những cộng đồng cùng sắc tộc của họ trong những lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Sự thật rằng họ thực hiện những lớp dạy Hoa ngữ và văn hóa hàng tuần, những lớp học ấy mở cửa cho công chúng, nhưng chủ yếu là người Hoa theo học; tuy nhiên, họ cũng thực hiện những chương trình ở trường công lập, giảng dạy về văn hóa Trung Hoa và Phật giáo, có hơn 10.000 trẻ em tham gia mỗi năm. Có một số chùa được giao nhiệm vụ điều hành những chương trình này toàn thời gian.

Thêm vào đó, những ngôi chùa thuộc Phật Quang Sơn ở Brisbane, Perth và Melbourne tổ chức các lễ hội lớn cho người dân ở Úc tham gia vào ngày lễ Vesak. Lễ hội ở Brisbane là một sự kiện lễ hội và giáo dục được thực hiện ở South Bank, trung tâm của thành phố, đã thu hút hàng ngàn người Úc bản địa. Lễ hội có sự tham gia của những nhóm văn hóa khác nhau, và thúc đẩy sự hòa hợp xã hội bằng việc giới thiệu đến công chúng những loại hình văn hóa và các truyền thống. Tổ chức Trợ tử của Phật mẫu Tara (Hospice of Mother Tara) ở Tây Úc tổ chức một số cuộc hội thảo công cộng về những vấn đề đạo đức đương đại từ quan điểm của Phật giáo, với mục đích cụ thể là trợ giúp các thành viên của cộng đồng phát triển sự hiểu biết đúng đắn.

Họ cũng tổ chức các khóa tu để khuyến khích cộng đồng tham gia thiền định. Hiệp hội Hòa bình của Phật giáo (Buddhist Peace Fellowship), với các chi nhánh ở Melbourne và Sydney, chỉ trên một thập kỷ, đã điều hành một chương trình giáo dục cộng đồng về những vấn đề then chốt liên quan đến phúc lợi xã hội rất năng động. Chương trình bao gồm những vấn đề về quyền của người thổ dân, những tác động của toàn cầu hóa, và quyền của những người Đông Timo. Hiện tại họ đang thực hiện một loạt các hội thảo về giáo dục đối với những phiến quân ở Mexico. Họ cũng điều hành những buổi hội thảo huấn luyện công cộng về những vấn đề chống bạo lực, thiền định, giải quyết xung đột và kiến tạo hòa bình. Họ tích cực trong việc chống toàn cầu hóa, giải trừ vũ khí hạt nhân, và đòi quyền cho những người thổ dân.

Tất cả những tổ chức Phật giáo đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc giảng dạy Phật pháp cho cộng đồng, vì khổ đau được cho là có nguồn gốc căn bản từ suy nghĩ và hiểu biết của con người. Họ cho rằng, nếu muốn giải thoát khỏi khổ đau, thì con người cần phải hiểu giáo lý Tứ Diệu Đế. Các nhóm người Tây Tạng giải thích rằng, nhiệm vụ trọng tâm của họ đối với việc giáo dục cộng đồng là vì hạnh nguyện Bồ tát. Bồ tát là người đã đạt được giác ngộ, nhưng thay vì từ bỏ cõi đời, các vị vẫn làm việc để giải thoát khổ đau. Chiều sâu của nhiệm vụ này gắn kết mật thiết với lời nguyện từ bi vô lượng của Bồ tát:

“Tôi nguyện giải thoát tất cả chúng sanh. Tôi nguyện cứu độ toàn thể thế giới hữu tình ra khỏi những sợ hãi của sanh, già, bệnh, chết và tái sinh, khỏi những sợ hãi của tất cả những gì chống trái với đạo đức, của tất cả những tình trạng đau khổ. Những nỗ lực của tôi không chỉ nhằm vào sự giải thoát cho riêng mình. Và với sự trợ giúp của con thuyền bát nhã, tôi nguyện cứu vớt tất cả những chúng sanh này ra khỏi dòng luân hồi sinh tử, một dòng xoáy rất khó vượt qua… Tôi quyết ở lại trong mỗi cảnh giới khổ đau từ vô lượng kiếp; và như vậy tôi sẽ giúp tất cả chúng sanh đều được giải thoát”.

Các tổ chức Phật giáo Trung Quốc nhấn mạnh rằng, động cơ dấn thân vào những hoạt động phúc lợi xã hội của họ là noi theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, vị Bồ tát của lòng từ bi. Các tổ chức Phật giáo Nguyên thủy thì nhấn mạnh tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo. Con đường này bao gồm việc phát triển Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Như là kết quả của việc giảng dạy con đường Trung đạo này, mỗi cá nhân có thể có cơ hội để tạo nên những phẩm chất ấy trong đời sống của họ. Họ nhấn mạnh những lời dạy của Đức Phật trong các bản kinh, chẳng hạn như: “Người có được sự hiểu biết này và có trí tuệ lớn thì không nghĩ đến việc làm hại mình hại người, không làm hại cả hai. Vị ấy nghĩ đến lợi ích của bản thân và lợi ích của người khác, lợi ích của cả hai, và nghĩ về lợi ích của toàn thể thế giới. Bằng cách đó vị ấy thể hiện sự hiểu biết và trí tuệ rộng lớn”.

Các hoạt động giáo dục cộng đồng quan trọng khác bao gồm cả việc đối thoại liên tôn giáo và những hoạt động hòa giải. Ni sư Sumedha, đến từ Trung tâm Phật giáo Quốc tế ở Darwin, đã tham gia tích cực vào những hoạt động liên văn hóa và tôn giáo. Tổ chức này nhấn mạnh vào việc xây dựng hòa hợp xã hội trong một cộng đồng đa văn hóa. Họ dấn thân vào chương trình hòa giải quốc gia với những cộng đồng thổ dân. Nền tảng triết học của chương trình này nằm ở sự nhận thức Phật giáo về sự kết nối lẫn nhau của tất cả chúng sinh và kết quả của hòa hợp xã hội có thể được tạo ra thông qua việc thực hành tuệ giác này. Đề án Tara ở Sydney cũng dấn thân tích cực vào quy trình hòa giải và đối thoại liên tôn giáo. Tổ chức này thực hiện việc định hướng văn hóa, tôn giáo và giáo dục cho những người dự định làm việc ở nơi môi trường thế giới thứ ba. Ở đây lại nhấn mạnh đáng kể vào việc tôn trọng sự đa dạng và vào sự gắn kết tuyệt đối vào nhau của tất cả chúng sanh.

Chỉ có hai tổ chức trong số 54 đối tượng nghiên cứu đã không tham gia vào bất cứ chương trình giáo dục hay phúc lợi xã hội nào. Một tổ chức thuộc Phật giáo Nguyên thủy và một tổ chức thuộc Thiền tông. Cả hai nói rằng, lý do hiện diện của họ là để đem lại một đạo tràng thực hành thiền định chuyên sâu dành cho những thành viên của họ. Cả hai biện luận rằng, đã có đủ những chương trình giáo dục và phúc lợi xã hội cho cộng đồng do những tổ chức Phật giáo khác thực hiện.

(còn tiếp)

Nguyên Hiệp lược dịch

(Journal of Buddhist Ethics, Vol. 8, tr. 61-74)

(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186)
(Thư Viện Hoa Sen)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/10/2013(Xem: 62707)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
19/10/2013(Xem: 12375)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 39891)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 30058)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 25688)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 41099)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
11/10/2013(Xem: 10778)
Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau: _ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa: + Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
26/06/2013(Xem: 4728)
Éric Rommeluère là một nhà sư ngườiPháp sinh năm 1960, khởi sự tập thiền từ năm 1978 dưới sự hướng dẫn của thiềnsư Teisen Deshimaru. Một năm sau ông xin quy y và hai năm sau đó thì ông chínhthức xuất gia và thụ phong tỳ-kheo. Éric Rommeluère ngày nay đã trở thành một vịthiền sư rất năng động
26/05/2013(Xem: 7558)
ự gia hộ ở đây, theo người viết, mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, khi ta tu tập theo lời Phật dạy có an lạc, thì sự an lạc này có thể nói là sự gia hộ hay sự cứu độ của Đức Phật. Thứ hai, khi ta nhận được niềm tin và cảm xúc thánh thiện từ hành động và nhân cách cao thượng của Đức Phật rồi hành động tốt đẹp trong cuộc đời, thì khi đó ta có thể nói rằng Đức Phật đã gia hộ cho ta.
13/05/2013(Xem: 3821)
Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu. Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]