Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng Nội Và Hướng Ngoại Dưới Cái Nhìn Phật Giáo

28/08/201012:11(Xem: 4928)
Hướng Nội Và Hướng Ngoại Dưới Cái Nhìn Phật Giáo
hoa_sen (7)Hướng Nội Và Hướng Ngoại 
Dưới Cái Nhìn Phật Giáo


Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức. 
 
Do nội quán, người ta nhận biết được cái tâm vọng động chứa đầy tham sân si, vô thường, vô ngã của mình để từ đó nỗ lực tìm về cái chân tâm. Phật tính, hay bản lai diện mục vốn có trong mỗi con người. 
 
Do ngoại quán, ta nhận chân được cái khổ triền miên của mọi chúng sanh, trong đó có ta, chính là hệ quả của cái tâm vọng động. Với nhận thức đúng có được nhờ vào nội quán và ngoại quán, ta nỗ lực thực hiện các hành động đúng tốt góp phần cứu khổ cho chúng sinh. Đó gọi là lợi hạnh độ sinh.

Hai thể cách nội quán và ngoại quán, hay cũng có thể nói là hai xu hướng hướng nội và hướng ngoại, tựa hồ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra thì chúng bổ sung hỗ trợ cho nhau, tiêu biểu cho hai hạnh lớn của đạo Phật là trí tuệ và từ bi; và Đức Phật, được Phật tử toàn thế giới ca ngợi tôn sùng, chính là bậc Thánh đã thể hiện một cách hoàn hảo nhất hai đức hạnh trí tuệ và từ bi đó.

Xu thế hướng nội: quay về con người thật của chính mình. Giữa thế giới đầy biến động hiện nay, trước cuộc sống thác loạn mà đặc trưng nổi bật của những xã hội có trình độ văn minh vật chất cao là hầu hết con người đều mải miết chạy đua theo lạc thú vật chất, và ngay cả những xã hội đang phát triển cũng bị nền văn minh đó mê hoặc để chập chững bước vào đường đua, chúng ta có thể nghĩ gì? Có sức mạnh sâu kín gì nằm ở đằng sau những tệ nạn như ma túy, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và bạo dâm, đồng tình luyến ái, bệnh tâm thần, nạn tự sát cá nhân hay tập thể v.v…như báo chí thường nêu?

Có thể thấy rằng đằng sau tất cả nếp sống thác loạn đó, vẫn là xu thế của con người bất hạnh muốn thoát khỏi cái Ta hạn hẹp và vị kỷ, muốn thoát khỏi tâm trạng bất an và những mối ưu tư dai dẳng, thường trực. Phải chăng là con người tưởng rằng vì nội tâm đầy ưu tư và buồn chán, cho nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc thú vật chất? Phải chăng con người tưởng rằng càng chiếm hữu càng nhiều của cải và tiện nghi vật chất, con người sẽ càng thêm được hạnh phúc, mọi nỗi ưu tư trong nội tâm sẽ được xóa bỏ?

Chủ nghĩa khoái lạc vốn đã được đề cao qua các triết gia thời cổ như triết phái Duy vật Carvata ở Ấn Độ, triết phái Hedonism và Epicurism ở Hy Lạp với các triết gia Aristippus, Hermachus, Epicurus….Tuy nhiên, đạo Phật nói rằng đó là ảo tưởng của những người khát nước mà còn ăn mặn, và càng ăn mặn càng bị khát nước. Đạo Phật chỉ ra rằng, nỗi bất an và ưu tư nội tâm chỉ có thể giải quyết ở trong nội tâm, chứ không thể giải quyết ở bên ngoài. Phương pháp tu thiền của đạo Phật mà người phương Tây quen gọi là đạo Phật Thiền chính là phương pháp giúp con người trở về với nội tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu tư và bất an của nội tâm. 
 
Nội tâm chúng ta không khác gì mặt nước hồ bị những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại cảnh làm cho nổi sóng và vẩn đục. Chúng ta ưu tư, chúng ta bất an chính vì chúng ta hằng ngày sống với cái nội tâm nổi sóng đó, trong khi cả lớp nước hồ sâu thẳm, trong lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ, không phải của mình.

Mục đích của Thiền không ở ngoài việc chỉ bày cho chúng ta những phương pháp thích hợp để làm cho bề mặt của nội tâm ta không còn nổi sóng, không còn dao động, để có thể nhìn sâu vào những lớp nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn là cái tâm thật của chúng ta, chân tâm của chúng ta.

Nội tâm của con người, từ bề mặt cho đến những bề sâu, một khi được làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như gương, sẽ là nguồn an lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý là ánh sáng, là Niết-bàn. Phương pháp tu thiền rất nhiều vì bản tính con người muôn vàn sai biệt, người thì độn căn, người thì lợi căn, có người nặng về tham, có người lại sân và si nhiều. Thế nhưng mục đích cuối cùng phải đạt tới của mọi phương pháp tu thiền đều là an tịnh nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội tâm từ dao động trở thành yên tịnh, từ mê mờ trở thành sáng suốt. Tâm sáng suốt, đó chính là trí tuệ Bát-nhã, chính là cái mà người ta thường gọi là trí tuệ siêu việt. Có được trí tuệ Bát-nhã, thì tức là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy tất cả, biết hết tất cả.

Trong Cư trần lạc đạo phú, hội 5, Phật hoàng Trần Nhân Tông viết: “Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa, Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt, Cốc mới hay chính Bụt là ta”. Nghĩa là tất cả chúng ta chính là Phật cả và chính vì chúng ta quên mất cái “bổn”, cái gốc đó cho nên chúng ta mới là chúng sanh, có trí óc mê muội và thâm tâm đau khổ bất hạnh. Niềm ưu tư, nỗi bất an thường trực có mặt trong nội tâm của mỗi người chính là bắt nguồn từ chỗ quên mất con người thật của mình vốn là Phật, mà chỉ biết sống với con người giả, là chúng sanh. Đạo Phật của Trần Nhân Tông cũng như của đầu đời Trần nói chung, là một đạo Phật hướng nội rất rõ nét, rất sinh động. 
 
Nên trên từ vua chúa, hoàng thân, đại thần, tướng lĩnh…đến dưới là binh sĩ, thứ dân…mọi người đều tin rằng mình là những ông Phật sẽ thành, do đó ngay trong hiện tại phải sống xứng đáng với ông Phật ở trong mình, sống với những đức hạnh của Phật như là từ bi, trí tuệ, dũng khí vô úy…thì hỏi có giặc ngoại xâm nào có thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không bị đánh bại?

Cổ đức có câu: “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (Biển khổ mênh mông, nhưng quay đầu lại thì sẽ thấy bờ). Quay đầu lại là hướng về nội tâm, quay đầu lại để sống với con người thật của chính mình, và con người thật đó chính là Phật với đầy đủ hai đức hạnh trí tuệ và từ bi. Đó chính là phương thuốc mà đạo Phật có thể cống hiến cho con người hiện đại. Con người hiện nay đang lãng đãng như khách phong trần trên khắp các nẻo đường, tìm kiếm sự thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm đó là vô vọng. Đạo Phật nói: thôi hãy đừng tìm kiếm đâu xa nữa! Hãy trở về với chính mình, với con người thật của mình.

Xu thế hướng ngoại: một cuộc sống hoàn toàn vô ngã vị tha, tích cực, năng động, phong phú. Con ngươi, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết quả, cuối cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy cái gọi là mình, là ta, thực ra không tồn tại. Cả thân và tâm chỉ là một dòng, một chuỗi hiện tượng tâm và sinh lý biến chuyển liên tục trong từng sát-na một, và ở bên trong hay là ở đằng sau dòng chảy liên tục đó, không có một cái gì gọi là linh hồn hay là cái ta vĩnh cửu.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, một bộ kinh Đại thừa quan trọng đã minh họa thuyết Vô ngã của đạo Phật bằng một ảnh dụ rất sinh động và cụ thể: “Cũng như trăm ngàn biển cả trong lặng mênh mông, mà bỏ đi tất cả rồi chấp nhặt một bọt nước là mình…” Chấp thân này là ta, cũng như biển cả quên mình là biển cả rồi chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.

Con người giác ngộ lý tưởng vô ngã của nhà Phật, phát hiện thấy mình không phải là cái bọt nước mà là cả đại dương rộng lớn, mình là đồng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sanh, mọi loài hữu tình, và từ nhận thức đầy trí tuệ này, con người phát ra một lòng từ rộng lớn, lòng bi rộng lớn, nguyện làm tất cả những gì có thể làm được, vì lợi lạc của tất cả chúng sanh, của tất cả mọi loài. Sống như vậy, đạo Phật gọi là sống theo lý tưởng Bồ-tát. Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi người, mọi chúng sanh đều bình đẳng, cùng một thể.

Như đã nói, đạo Phật luôn khuyến cáo mọi người hãy quay về với con người thật của mình, thế nhưng con người thật của chúng ta lại là vô ngã, nó không hạn chế trong cái thân và tâm vô thường hạn hẹp này, nó là cùng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sanh và mọi loài hữu tình khác. Và sống hòa nhập với mọi người, mọi chúng sanh chính là lối sống vô ngã vị tha theo lý tưởng Bồ-tát.

Nói tóm lại, hướng nội để tìm con người thật của chính mình. Nhưng sau khi phát hiện con người thật của mình lại là không có mình, không có ta, là vô ngã, đồng nhất với tất cả mọi người, mọi chúng sanh khác, cho nên đạo Phật lại chủ trương một cuộc sống năng động tích cực, hướng ngoại không phải là để tìm và hưởng thụ những lạc thú vật chất tầm thường và phi đạo đức, mà là để mưu lợi và đem lại an lạc cho mọi người, mọi loài. 
 
Trong cả hai xu thế hướng nội và hướng ngoại này, nổi bật lên chủ thuyết vô ngã của đạo Phật, nó không khác gì sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ giáo lý, đạo đức và thực tiễn tu hành của đạo Phật. Khi Đức Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài đã nhập diệt, tại bất cứ nơi nào đạo Phật có mặt thì lý tưởng vô ngã vị tha bao giờ cũng là chuẩn mực bất di bất dịch của nếp sống đạo đức Phật giáo. Bất cứ một người nào mà chối bỏ lý tưởng đó, sống ngược lại với lý tưởng đó, thời không thể được xem như là người Phật tử chân chinh. Chúng ta hãy nghe lời Đức Phật khuyến dụ lớp học trò đầu tiên của Ngài: “Này các Tỷ kheo, các người cần phải tu hành, vì an lạc số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương thưởng cho đời, vì hạnh phúc của chư Thiên và loài người…”(Magavagga, 19).

Cho nên, từ năm 300 trước Tây lịch, vào một thời mà đạo Phật Đại thừa chưa hưng khởi , thì Hoàng đế Asoka ở Ấn Độ đã phái nhiều đoàn truyền giáo mang thông điệp của Đức Phật Thích-ca đên tận các xứ Syria, Hy Lạp, Ai Cập, Bắc Phi và nhiều vùng xa xôi khác trên thế giới. Theo truyền thuyết, một phái đoàn truyền giáo của vua Asoka đã đến tận nước ta, và có xây một bảo tháp ở đây. Truyền giáo ở đất nước xa xôi, bất chấp những trở ngại về ngôn ngữ, phong tục tập quán…là một hành động không những vị tha mà còn dũng cảm nữa. Và đã có biết bao nhiêu người đi mà không trở về trong sự nghiệp truyền giáo của các tôn giáo lớn trên thế giới.

Thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là đã đánh mất con người thật của chính mình, mà chạy theo cái Ta giả với những khao khát thèm muốn không bao giờ có thể thỏa mãn. Con người hiện đại ở xã hội văn minh phương Tây, có thể sống một đời sống tiện nghi vật chất thật đầy đủ, nhưng chỉ thiếu một cái là hạnh phúc, là sự an ổn nội tâm để thật sự thụ hưởng tất cả mọi của cải và tiện nghi vật chất đó.

Đúng như vậy, của cải và tiện nghi vật chất, lạc thú vật chất không thể là mục đích tự nó, không thể là cứu cánh được. Bởi vì, tối thiểu con người phải có sự bình tĩnh và thanh thản của tâm hồn mới có thể tận hưởng những lạc thú vật chất hay tinh thần. thế nhưng từ lâu, do không biết đến sự kiềm chế dục vọng, con người của xã hội văn minh đã đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản đó của tâm hồn, là điều kiện tiên quyết và cơ bản của một hạnh phúc chân chính và thật sự.

Rõ ràng, đạo Phật một mặt lên án cuộc sống chạy theo những dục vọng vật chất thấp hèn, mặt khác cũng không phải đề cao cuộc sống nghèo đói, kham khổ, đạo Phật lại càng phê phán lối tu hành hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ làm cho thân người bệnh hoạn và đầu óc con người u mê. Đức Phật khuyên chúng ta tránh cả hai cực đoan chạy theo dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh. Đức Phật khuyến cáo học trò mình cũng như tất cả mọi người sống nếp sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói sáng đạo đức giới hạnh và trí tuệ, một nếp sống mà tất cả mọi người dù giàu hay nghèo, xuất gia hay tại gia, ở phương Đông hay ở phương Tây đều có thể sống hay hướng đến. 
 
Một nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình tĩnh nội tâm, sự sáng suốt của trí tuệ, giúp con người có thể thấy được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà con người có thể sống hài hòa với bản thân và làm chủ bản thân, sống hòa hài với xã hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp sống hòa hài đó, với bản thân, với xã hội và thiên nhiên, con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự.

Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận và sống nếp sống như vậy, thì mọi cá nhân, gia đình và cả thế giới chiến tranh và bất ổn này sẽ sớm trở thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc. Và như vậy, xu thế hướng nội của đạo Phật quay về với con người thật của chính mình không nên bị hiểu nhầm là tiêu cực, tự thu mình trong tháp ngà. Xu thế hướng ngoại mà đạo Phật nói dẫn tới một lối sống vị tha tích cực, vì lợi lạc của tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy, có ghi những lời dạy của Đức Phật khuyến cáo học trò mình phải tích cực hoằng hóa độ sanh, và nhất là thực hành Bốn nhiếp pháp để gần gũi chúng sanh, mưu lợi lạc cho chúng sanh, gần gũi mọi người, đem lợi lạc cho mọi người.

Bốn nhiếp pháp đó là ái ngữ, từ là lời nói dịu hiền dễ nghe; bố thí, tức là giúp đỡ chúng sanh trên các mặt cung cấp của cải vật chất, giảng giải đạo lý, giáo pháp của Đức Phật, che chở, bảo vệ chúng sanh nếu cần thiết, và tùy hỷ với tất cả niềm vui của chúng sanh; lợi hành là thực hiện các hành động lợi lạc cả về thân khẩu ý để hướng mọi người vào chánh đạo; và cuối cùng là đồng sự, tức là cùng làm việc với chúng sanh.v.v… Bốn nhiếp pháp: ái ngữ, bố thí, lợi hành, đồng sự là như vậy, chúng thể hiện nếp sống vị tha tích cực của đạo Phật.

Cùng với Bốn nhiếp pháp, người Phật tử giác ngộ về thuyết Vô ngã, còn ra sức tu tập, thực hành Bốn vô lượng tâm, tức là mở lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả bao trùm tất cả chúng sanh khắp mười phương. Đồng thời cũng tu tập thực hành Sáu hạnh Ba-la-mật, tức là bố thí, giới hạnh, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Sáu hạnh này, được tu tập và thực hành đến chỗ hoàn hảo, triệt để sẽ giúp cho những người sống theo lý tưởng Bồ-tát, có thể vứt bỏ hoàn toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa nhập vào tất cả chúng sanh, tất cả mọi người.

Đó là nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý Vô ngã của đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là tiêu cực thụ động. Trái lại, nó rất tích cực, năng động và phong phú, đa dạng. Mong rằng nó tỏ ra hấp dẫn đối với con người hiện đại, đối với xã hội hiện đại.

Tạp Chí Văn Hóa Phật giáo số 162
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8148)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16512)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12488)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19949)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4440)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4320)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5039)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4262)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4243)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11604)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567