Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1- Nuôi Dưỡng Lòng Vị Tha

14/05/201317:46(Xem: 3256)
1- Nuôi Dưỡng Lòng Vị Tha


THẾ GIỚI HÒA ĐỒNG

HỘI LUẬN GIỮA H.H THE DALAI LAMA& TÁM NHÀ TÂM LÝ HOA KỲ

Bản dịch:Chân Huyền

Nhuận sắc: Chân Văn

CHƯƠNG 1

NUÔI DƯỠNG LÒNG VỊ THA

Diễn văn của Đức Đạt lai lạt ma

Từ bi, tình yêu và lòng vị tha không phải chỉ là những đức tính được các tôn giáo đề cao, giảng dạy. Loài người, ngay cả loài vật, đều cần lòng vị tha và tình thương mến, để có thể phát triển, tồn tại và sống còn. Khi chưa ra đời, còn trong bụng mẹ, sự bình an của mẹ đã có liên quan mật thiết với sự bình an của chúng ta. Ngày từ những tuần lễ đầu đời, là thời gian quyết định cho sự phát triển của đứa trẻ, một cái vuốt ve giản dị của bà mẹ cũng rất quan trọng cho bộ óc chúng ta được nảy nở. Suốt mấy năm sau đó, chúng ta không thể sống còn nếu không có sự trìu mến và tình thương của mẹ hay của một người khác. Nay khôn lớn rồi, ta vẫn cần có người mình tin cậy được, có người ban cho mình sự trìu mến. Và lúc về già, ta lại cần lệ thuộc nhiều vào tình thương mến của mọi người. Đời sống con người là vậy.

Tương lai chúng ta tuỳ thuộc vào giới trẻ. Để cho lớp người này khi khôn lớn trở thành một thế hệ lành mạnh, chúng ta cần tạo cho họ một môi trường nhiều tình thương từ khi họ còn nhỏ. Chúng ta có thể nhận diện một cách dễ dàng những trẻ em mà cha mẹ không chăm nom chúng vì những lý do riêng tư nào đó. Chúng luôn có những cảm giác bất an, không nơi nương tựa. Tâm trí hay bị xao động, và kết quả là cuộc đời chúng cũng bị hư hao cách này hay cách khác. Trong một gia đình lành mạnh, trẻ luôn nhận được tình thương mến và sự che chở, chúng sẽ sung sướng và phát triển lòng tự tin. Vì vậy chúng sẽ khoẻ mạnh hơn, sống cuộc đời có giá trị hơn. Lòng từ bi và tình thương yêu là những yếu tố quyết định trong chuyện này.

Mục đích của đời sống là gì? Tôi tin rằng sự hài lòng, vui vẻ và hạnh phúc là những mục tiêu tối hậu của đời sống. Và căn bản của hạnh phúc là thiện tâm, lòng từ bi và tình thương yêu. Nếu chúng ta có những thứ này, dù gặp nghịch cảnh, ta cũng ít bị phiền trược. Mặt khác, nếu chúng ta thiếu từ bi, nếu tâm ta tràn đầy giận hờn, thù hận, thì sống trong hoàn cảnh nào ta cũng không được bình an. Thiếu từ bi, ta sẽ thấy bất an, do đó sanh tâm sợ hãi và thiếu tự tin. Một biến cố nhỏ cũng làm tâm thức ta bị lung lay. Nhưng nếu tâm an, thì dù chuyện nghiêm trọng có xảy tới, ta cũng sẽ biết cách đối phó.

Muốn xử dụng được tất cả trí thông minh của con người, ta phải có bình tâm. Nếu vì giận dữ mà ta mất thăng bằng thì khó mà ta xử dụng được trí thông minh một cách tốt đẹp. Trí thông minh đó sẽ bị xử dụng một cách lầm lẫn nếu chúng ta bất an, bị những tư tưởng yếm thế ảnh hưởng. Hãy coi lại lịch sử loài người vài ngàn năm qua, nhất là trong thế kỷ 20 này, chúng ta sẽ thấy những thảm kịch như vụ Holocaust (Hitler giết tập thể người Do Thái hồi thế chiến thứ hai 1939-1945). Nó xảy ra là do lòng thù hận, sợ hãi và nghi ngờ. Và chúng ta cũng chứng kiến nhiều phát triển tốt đẹp nhờ những trạng thái tinh thần thiện hảo như lòng từ bi chẳng hạn.

Trong nền kinh tế thế giới thời hiện đại, mỗi quốc gia đều có liên hệ mật thiết với các quốc gia khác. Ngay cả những nước không thân thiện nhau cũng vẫn phải hợp tác về kinh tế và về cách sử dụng tài nguyên chung của thế giới. Vậy thì, trong gia đình cũng như ngoài thế giới. Loài người cần có sự hoà hợp và tinh thần hợp tác. Sự hợp tác chân thật không do sức mạnh, mà do sự tương kính lẫn nhau, trong đó tinh thần vị tha chính là một yếu tố căn bản.

Khi một cá nhân có tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng nhân loại, người đó tự nhiên sẽ chăm sóc sinh môi chung, trong đó có cả việc làm cho sự gia tăng nhân số và phát triển kỷ nghệ chậm bớt lại. Nếu chúng ta suy nghĩ hẹp hòi, chỉ nhìn quanh mình thôi, chúng ta sẽ không xây dựng được một tương lai tốt đẹp. Trong quá khứ, khi ta coi thường hậu quả việc mình làm thì còn đỡ nguy hiểm . Nhưng ngày nay, với đà tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chúng ta có thể tạo ra những hậu quả lớn hơn nhiều, dù tốt hay xấu. Sự đe doạ của vũ khí nguyên tử, và những khả năng phá huỷ môi sinh, tỷ như việc phá rừng, gây ô nhiễm, tầng ô-zôn (ozone) bị thủng… đã tới mức cần báo động. Chúng ta có thể thấy được những mối nguy hiểm tiềm tàng đó. Tuy nhiên, có những mối nguy ít nhận biết được nhưng chúng còn nguy hiểm hơn nhiều, như lớp đất màu-tài nguyên thiên nhiên đang biến mất. Vì tới khi chúng ta thấy được ảnh hưởng của chuyện này, thì đã quá trễ!

Vậy thì, nói cho cùng, muốn có sự hợp tác thật sự, có tinh thần trách nhiệm đích thực căn cứ vào lòng từ bi và vị tha, chúng ta phải biết tương kính, phải biết chăm lo-không phải chỉ cho loài người-mà cho cả các loài sinh vật và môi trường trái đất nữa. Chúng ta phải giảm bớt sự xâm phạm và quấy động thiên nhiên đi. Tinh thần vị tha là chìa khoá của việc tạo hạnh phúc cho cá nhân, gia đình, quốc gia và cộng đồng thế giới.

Khi tôi đi vòng thế giới, gặp gỡ những người thuộc các khuynh hướng khác nhau, tôi nhận ra thời nay, nhiều bạn tỏ ra thật sự quan tâm tới những vấn đề này và có cùng quan điểm như tôi vừa trình bày. Vấn đề căn bản là làm sao chúng ta có thể phát triển và duy trì lòng từ bi. Các tôn giáo giúp chúng ta rất nhiều, nếu chúng ta có tín ngưỡng. Nếu bạn không có tín ngưỡng, bạn cũng vẫn có thể sống hạnh phúc được. Lòng từ bi, tình yêu, sự tha thứ không phải là những xa xí phẩm. Đó là những điều căn bản khiến chúng ta sống còn.

Khi tôi nói về sự quan trọng của lòng từ bi và tình yêu, người ta thường hỏi tôi làm sao để phát triển nó? Điều này không dễ. Tôi không tin là có một phương thức nào đặc biệt khiến cho người ta có thể phát triển những đức tính này ngay lập tức. Bạn không thể chỉ bấm một cái nút là chúng hiện ra. Tôi biết có nhiều người kỳ vọng ở Đạt lai lạt ma những chuyện như vậy. Nhưng thật ra, tôi chỉ có thể hiến tặng những kinh nghiệm của riêng tôi mà thôi. Nếu bạn thấy điều gì hữu ích, tôi mong bạn cứ xử dụng nó. Nếu bạn không quan tâm tới những chuyện này thì cứ bỏ qua, cũng không sao.

Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu bằng cách tìm hiểu cuộc sống hàng ngày của chính mình, và quan sát những câu chuyện của người chung quanh để thấy những hệ quả của sân hận, hay của lòng từ bi, tình yêu thương. Nếu chúng ta để tâm so sánh hai thái độ này, ta sẽ hiểu sâu hơn về những hậu quả tiêu cực của lòng sân hận, về những hậu quả tích cực của lòng thương người. Khi mà chúng ta tin chắc vào lợi ích của lòng vị tha, và sự thiệt hại của sân hận – bao giờ nó cũng làm ta đau khổ - thì ta sẽ cố gắng để bới giận dữ. Chúng ta sẽ cẩn trọng hơn. Chúng ta thường nghĩ sự sân hận bảo vệ, giúp chúng ta chống lại chuyện gì đó, nhưng đó là một quan niệm lầm lẫn. Điều quan trọng là ta phải thấy những hậu quả tệ hại của lòng sân hận. Tôi thấy sân hận không có ích lợi gì cả.

Đôi khi người ta tưởng rằng khi gặp một thiên tai hay bị người đồng loại làm đau khổ, nếu ta tức giận thì ta sẽ có nhiều năng lực và can đảm để tranh đấu. Nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy dù cơn giận có cho ta năng lực, thì đó cũng là một sức mạnh mù quán, khó lòng kiểm soát nó được. Trong lúc giận đó, ta có thể bất cần, nhưng sau vài phút, ta sẽ rất hối tiếc. Khi giận dữ, ta thường nói những lời lẽ cay độc, lỗ mãng mà sau không thể rút lại được. Nhưng khi cơn giận hết rồi, ta sẽ thấy mình thật đáng ghét lúc gặp lại người kia, chỉ vì khi sân si, chúng ta đã mất hết lý trí, gần như điên vậy. Có nhiều loại và nhiều trình độ giận dữ. Khi giận ít ta còn kiểm soát nó được, nhưng khi có những cái sân hận lớn hơn, mạnh hơn, ta phải tìm những kỹ thuật khác để xử lý nó. Ngay khi ta nhìn thấy tính cách tiêu cực của tình cảm này, là cái giận đã giảm bớt cường độ rồi.

Tôi là người quê ở miền Bắc xứ Tây Tạng. Dân vùng đó thường rất nóng tính. Vậy nếu tôi có giận, tôi có thể vịn vào đó để được tha thứ. Khi tôi 15 hay 20 tuổi, tôi khá nóng nảy. Nhưng sau nhờ học đạo Bụt và trải qua nhiều khó khăn, tôi tiến bộ nhiều trong việc giữ cho tâm an bình. Những hoàn cảnh khó khăn là cơ duyên rất tốt để tập luyện tâm tính. Nó cho ta cơ hội nảy nở được mối quyết tâm.

Ngày nay so với hai mươi hay ba mươi năm trước, tâm tôi vững chãi hơn nhiều. Dĩ nhiên đôi khi tôi cũng còn bị xao động, nhưng trạng thái này biến đi khá nhanh, và nóng giận thì hầu như không còn. Kết quả là tôi sống hạnh phúc, vui vẻ hơn. Khi nghe phải một tin rất xấu, tôi bị khó chịu mất vài phút, nhưng sau đó không bị phiền não gì nữa. Nhờ tu tập, chúng ta có thể thay đổi, chúng ta có thể tự cải thiện. Kết quả tu luyện đối với tôi, là tâm tôi tương đối bình an. Tôi không bao giờ phải dùng thuốc ngủ, và khi nào ăn cũng ngon miệng. Qua kinh nghiệm riêng, tôi tin chắc rằng khi bớt sân hận chúng ta sẽ mạnh khoẻ hơn, hạnh phúc hơn, cười nhiều hơn và có nhiều bạn hơn.

Trí thông minh là ưu điểm số một của con người. Nó có thể ước định những hệ quả ngắn hay dài hạn của những công việc ta muốn làm. Nhưng nó không còn sáng suốt khi ta bị chao đảo bởi những cảm xúc mãnh liệt. Khi ta hành động trong cơn giận, ta không biết là có hiệu quả hay không. Nhưng nếu không giận dữ, ta có thể phân tích tình hình và biết có nên phản ứng mạnh mẽ chăng. Nếu cần, ta sẽ phản ứng mà sau đó không ân hận. Nếu chúng ta thật sự có tinh thần liên đới trách nhiệm, ta cũng quan tâm tới những người liên hệ và hậu quả lâu dài đối với họ. Nhìn rõ như vậy, ta sẽ thấy là những phản ứng trong khi không giận dữ thường có hiệu quả và thích hợp với hoàn cảnh hơn. Sân hận chỉ mang cho chúng ta một ít năng lực, nhưng chúng ta cũng có thể vận dụng năng lực từ những thứ khác để không gây đổ vỡ cho ta và cho người khác.

Chúng ta hay đồng hoá, coi một người trực tiếp hay gián tiếp làm hại chúng ta là “kẻ thù”. Bình thường ta không ưa kẻ thù. Ta thường nhìn người mà ta gọi là kẻ thù như một thực thể hoàn toàn ở bên ngoài ta, tỷ dụ như một người hay một nhóm người xâm phạm tài sản, làm hại bạn bè, hoặc định giết hại ta. Nhưng nếu chúng ta Quán sâu hơn, ta sẽ thấy là 3 thứ - của cải, bạn bè, và thân mạng mình - đều không phải 100% là nguồn hạnh phúc của mình. Đôi khi vì tài sản, ta phiền não nhiều hơn; vì bạn bè, ta gặp rắc rối hơn, và vì thân mạng mình, ta bị nhiều đau đớn. Ví thử những liên hệ đó là những nguồn hạnh phúc của ta, thì sự thật ra sao? – Ta có thể nói đó là 70 hay 80% những nguồn hạnh phúc không thể là 100% được.

Mặc khác cái tâm an nhiên và tự tại là một nguồn gốc rất quan trọng của hạnh phúc. Gần như chắc chắn là khi tâm bạn an thì bạn sẽ vui (lạc). Một kẻ thù từ bên ngoài, dù mạnh tới đâu, cũng không thể đánh thẳng vào cái tâm an nhiên của mình được, vì sự an nhiên đó không có hình sắc (vô tướng). Nguồn hạnh phúc chân thật này chỉ bị cái sân hận của chính ta phá huỷ mà thôi. Vậy, kẻ thù thật sự của ta, kẻ phá hoại hạnh phúc của ta chính là cái giận.

Xin hãy suy nghĩ theo những dòng chữ này như một sự thực nghiệm, hay một nghiên cứu khoa học. Khi một nhà khoa học nghiên cứu chuyện gì, nếu họ thấy điều ích lợi, họ sẽ nuôi dưỡng chúng. Nếu thấy cái gì có hại hay độc địa, họ sẽ tránh. Tâm ta cũng vậy. Ta có nhiều tâm thức khác nhau, nhiều ý tưởng, cảm giác, mọi thứ đều có ảnh hưởng vào hạnh phúc của chúng ta. Khi chúng ta tự quán sát tâm mình, ta có thể nuôi dưỡng những tâm thức nào tích cực, có lợi và tránh những tâm thức tiêu cực, có tính phá hoại. Điều khác nhau giữa sự nghiên cứu khoa học và quán sát tâm thức là khi làm khoa học ta cần có phòng thí nghiệm rộng rãi, phòng ốc nhiêu khê, và một số vốn khổng lồ. Trong thế giới nội tâm, ta chỉ cần quán tưởng coi những tư tưởng nào có ích, cái nào có hại, và luôn luôn cố gắng phát triển những gì mình thích mà thôi. Với thời gian, tâm tình bạn sẽ trở nên thăng bằng hơn, bạn sẽ tự thấy mình hạnh phúc và bình an hơn nhiều. Đây là một thứ thiền tập cho tâm thức, rất đáng tập và rất giản dị.

Nụ cười là một đặc điểm đẹp nhất của loài người. Không có mấy giống vật biết cười. Tôi mới đi thăm “thế giới biển cả” (Seaworld) tại San Diego, thấy nhiều giống vật rất thông minh và giống loài người lắm, nhưng chúng không biết cười! Có hai loại cười khác nhau: cười hồn nhiên và cười giả tạo. Nếu ta cười thật sự và thành thật, hiện khởi từ lòng thương người, thì cái cười làm cho ta dễ chịu lắm.

Mỗi ngày khi thức giấc, ta tự bảo “hãy thương người”. Nếu ta có thái độ vị tha đó, nhiều điều thuận lợi sẽ xảy ra. Nhưng nếu ta thức giấc trong hờn giận hay ghen tuông, những cảm thọ tiêu cực này sẽ khiến chúng ta suốt ngày nghi ngờ, khó chịu. Khi chúng ta thành thật tìm hiểu và phân tích những điều này tuỳ theo kinh nghiệm sống của chính mình hay theo lời kể lại của hàng xóm, thì dần dần, ta sẽ lấy lại được thăng bằng và khả năng nhận ra ngay khi bắt đầu có những cảm thọ tiêu cực.

Tôi thực tập những điều vừa nói, và tôi biết nó rất hữu ích. Tôi ráng thành thật với tất cả mọi người, kể cả người Trung Quốc. Nếu tôi nuôi dưỡng, phát triển những cảm thọ độc ác, giận dữ, thù hận, thì ai là người sẽ bị thiệt? Tôi sẽ mất hạnh phúc, ngủ không yên, ăn không ngon, và lòng sân hận của tôi cũng chẳng làm hại gì được người Trung Quốc. Nếu tôi bị dao động, thể chất tôi sẽ bị yếu đi, và tôi sẽ chẳng đem hạnh phúc được cho ai nữa.

Một số người có thể phe bình tôi, nhưng tôi ráng sống an lạc. Nếu tôi muốn làm việc có hiệu quả cho Tự Do và Công Lý, cách tốt nhất là tôi phải không thù hận, không có ác tâm. Nếu chúng ta an nhiên và thành khẩn, ta có thể làm việc rất nhiều trong vòng ba bốn mươi năm. Tôi nghĩ như vậy vì tôi nhất quyết chọn phương cách bất bạo động, căn cứ vào tình nghĩa huynh đệ. Công việc tôi làm đã có đôi chút kết quả.


----o0o---

Vi tính: Tường Chánh

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2012(Xem: 3513)
Hôn nhân là một quy ước xã hội, một thể chế được tạo nên bởi con người vì sự thiết thực và hạnh phúc của con người, để phân biệt xã hội loài người từ đời sống động vật và duy trì trật tự và hòa hợp trong quá trình sinh sản. Mặc dù các kinh điển Phật giáo không nói gì đến chủ đề của chế độ một vợ một chồng hoặc chế độ đa thê, các Phật tử được khuyên nên giới hạn bản thân để chỉ có một vợ. Đức Phật không đặt quy tắc về cuộc sống hôn nhân nhưng đã đưa ra lời khuyên cần thiết về việc làm thế nào để sống một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
17/02/2012(Xem: 3967)
Đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời, bởi vì Phật giáo bao gồm nhiều tông phái và sự thực hành, hoặc những gì chúng ta gọi là truyền thống. Những truyền thống này đã phát triển trong những thời điểm khác nhau và các nước khác nhau, và trong vài mức độ cách biệt nhau. Mỗi tông phái đã phát triển tính năng đặc biệt mà một người quan sát bình thường có thể nhận ra được sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, những khác biệt này thường xuyên bao phủ văn hóa một cách đơn thuần, và trong các trường hợp khác, chúng nó chỉ khác biệt trong sự chú trọng cách tiếp cận. Trong thực tế, tất cả các truyền thống được củng cố bởi điểm cốt lõi của niềm tin và sự thực hành phổ biến
17/02/2012(Xem: 4119)
Đây là một thời đại trong đó vấn đề tình dục được thảo luận với sự cởi mở lớn. Có rất nhiều người bị bối rối khi tìm hiểu thái độ của Phật giáo đối với tình dục, và vì thế mong rằng các việc hướng dẫn sau đây có thể tìm ra hữu ích hướng tới sự hiểu biết. Dĩ nhiên, đó là đúng để nói rằng Phật giáo, trong việc duy trì nguyên tắc của con đường Trung đạo sẽ không ủng hộ chủ nghĩa đạo đức cực đoan hoặc sự buông thả thái quá, nhưng điều này, như một nguyên tắc hướng dẫn mà không có chi tiết kỹ thuật xa hơn, có thể dường như không có khả năng lợi ích cho hầu hết mọi người
17/02/2012(Xem: 4694)
Trong bài này, tôi tham khảo các loại dược phẩm- ý nghĩa của tất cả các loại thuốc, bất cứ điều gì chúng ta có thể trở nên quen thuộc và rồi chúng ta thích thú tùy theo mức độ phụ thuộc. Điều này có vẻ như những loại dược phẩm bị hiểu lầm. Chúng nó có một lịch sử rất dài. Tất cả mọi người, và trong mọi lúc, cần một cái gì đó để làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa và hầu như luôn luôn có nhu cầu đối với các loại dược phẩm, thức ăn, tình dục, cũng như tôn giáo.
16/02/2012(Xem: 6597)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
15/02/2012(Xem: 6481)
Trường Đại Học Dharma Realm Buddhist và Đại Học San Francisco State. Tài liệu nghiên cứu "Súc Quyền và Sự Quan hệ của Con Người Đối Với Sinh Vật Học-San Francisco State University” (March 29-April 1, 1990). Tôi muốn bàn đến hai ví dụ nổi bật về loài vật hành động với nhiều nhân tính hơn hầu hết con người. Quan điểm của tôi không phải cho rằng động vật nhân đạo hơn con người, nhưng điều này có một bằng chứng rằng động vật có thể hành động theo những cách mà không chứng minh bằng những khuôn mẫu nhất định của phương Tây về năng lực của chúng.
15/02/2012(Xem: 4282)
Một sự phân tích về Phật giáo xác minh rằng nhân quyền có thể bắt đầu ở Ấn Độ, nơi sinh của Phật giáo. Vào năm 1956, BR Ambedkar, người đạo Hindu đã quy y Phật giáo và đưa gần 4.000.000 người giai cấp “hạ tiện” khác cùng quy y.[1] Sangharakshita, một Phật tử đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào cải đạo hàng loạt mà Ambedkar vận động, các ký giả viết về Ambedkar
15/02/2012(Xem: 3073)
Hai nghìn năm trước, nhân loại không có kinh nghiệm với sự đe doạ nghiêm trọng thực sự đối với sự sống còn của mình. Khi bước vào thiên niên kỷ này, chúng ta có một sự khủng hoảng ngày càng tệ hơn về môi trường của trái đất, và điều này đã làm dấy lên một sự đe doạ thực sự đối với sự tồn tại của con người trên quy mô toàn cầu. Hệ sinh thái của trái đất có cơ nguy cơ thoái hóa nếu sự suy thoái của môi trường sẽ không được lùi lại.
15/02/2012(Xem: 3511)
Trong hai thập kỷ qua, tôi đã tiếp xúc liên tục với các cộng đồng Phật giáo, trong cả hai: văn hóa truyền thống và công nghiệp hóa phương Tây. Những kinh nghiệm này đã làm cho tôi nhận thức được rằng sự phát triển công nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến cách sống của chúng ta, nhưng còn là quan điểm thế giới của chúng ta. Tôi cũng đã học được rằng nếu chúng ta muốn tránh một sự hiểu sai đối với giáo lý Phật giáo, chúng ta cần phải xem xét chặt chẽ vào sự khác biệt cơ bản giữa các xã hội là bộ phận của nền kinh tế toàn cầu công nghiệp hóa và điều này phụ thuộc vào nhiều nền kinh tế địa phương.
15/02/2012(Xem: 3487)
Đức Phật xuất thân từ một chiến binh đẳng cấp và ngài được sinh ra trong xã hội với các vị vua, hoàng tử và các quần thần. Mặc dù nguồn gốc và sự liên hệ của Ngài như thế, Ngài không bao giờ viện đến sự ảnh hưởng của quyền lực chính trị để giới thiệu trong sự giảng dạy của Ngài, và cũng không cho phép Giáo pháp của Ngài lạm dụng sự ảnh hưởng này để đạt được quyền lực chính trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567