Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[09]- NHỮNG CÔNG NĂNG VĨ ÐẠI CỦA PHÁP - Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri. Dhammananda

14/05/201313:28(Xem: 3659)
[09]- NHỮNG CÔNG NĂNG VĨ ÐẠI CỦA PHÁP - Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri. Dhammananda

Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo

Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996

Thích Tâm Quangdịch
Chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ, 2000

---o0o---

(II)

ÐỨC PHẬT VÀ GIÁO LÝ CỦA NGÀI

---o0o---

9

NHỮNG CÔNG NĂNG VĨ ÐẠI CỦA PHÁP

Tiến Sĩ K.Sri. Dhammananda

Lời Phật dạy thường được gọi là Pháp (Dhamma hay Dharma). Lời dạy này chẳng phải là một khám phá hay một ức đoán truyền thuyết với sự quanh co thần học. Ðó là Chân Lý lan tràn trong Vũ trụ, là sự khám phá duy nhất của một đại đạo sư giác ngộ. Tuy nhiên, Phật giáo là thuật ngữ hiện được dùng cho Pháp và được đặt tên sau khi khám phá ra. Ðức Phật Cồ Ðàm, nhận thức ra Chân Lý và phổ biến chân lý này cho thế giới. Chắc chắn có sự khó khăn cho một người bình thường thấu triệt được đúng vì tâm ý họ còn bị vẩn đục bởi ảo tưởng.

Có nhiều công năng trong Pháp khiến Pháp tuyệt vời và toàn bích trong ý nghĩa cao cấp nhất của thuật ngữ này. Tuy nhiên có ba khía cạnh về Pháp cần được ghi nhận. Khía cạnh thứ nhất là lý thuyết phải được học trong sự thanh tịnh ban sơ. Khía cạnh thứ hai là sụ áp dụng thành thực, sự thực hành lời giáo huấn, sống theo lời dạy của Ðức Phật bằng cách tránh tất cả tội lỗi, làm điều thiện và thanh tịnh tâm ý. Khía cạnh thứ ba là phát triển trí tuệ, đạt được sự hiểu biết hoàn toàn về sự thực của những hiện tượng.

Trong số nhiều các công năng, sáu đặc tính nổi bật ghi trong các bản văn có căn cứ đích xác. Những Pháp Ðức Hạnh này được tụng trong các khóa tụng niệm hàng ngày của người Phật Tử. Kệ bình dân bằng tiếng Pali giải thích những Pháp đức hạnh ấy như sau:

Svakkhata Bhagavata Dhammo, Sanditthiko, Akaliko, Ehipassiko, Opanayiko and Paccatam Vedittabo Vinnuhi.

Chi tiết về những đặc diểm nổi bật này được miêu tả và giải thích như sau:

1. Svakkhato Bhagavata Dhammo

Thuật ngữ này có nghĩa là Pháp được khám phá ra và công bố bởi Ðức Thế Tôn. Pháp này được coi như công năng chung của tất cả ba khía cạnh Giáo Lý, gọi là lý thuyết, sự tu tập chân thành và thấu triệt hoàn toàn trong khi phần từ ngữ còn lại liên quan với siêu trần (lokuttara) gồm có tám giai đoạn đạt thánh quả và Niết Bàn - coi như cứu cánh tuyệt đốicủa Phật Giáo.

Pháp được giải thích cặn kẽ bởi Giáo Chủ. Phần đầu xuất sắc, phần giữa xuất sắc và phấn cuối cũng xuất sắc. Không có mâu thuẫn, không có sự tự ý thêm vào và cũng không chệch hướng. Cũng như mỗi giọt nước trong biển cả chỉ có một vị, vị của muối mặn, Pháp chỉ có một, chỉ có một vị bất cứ lúc nào, vị hạnh phúc Niết Bàn. Pháp chân thật cả chữ lẫn ý. Môn học về Pháp bắt đầu với Giới (Sila) tức hạnh kiểm tốt, với Ðịnh (Samadhi), ý thức của tâm thanh thản, và với Huệ hay Trí Huệ (Panna) phát sanh sau khi đạt được Ðịnh.

Muốn đạt kiến thức về Pháp phải bắt đầu với việc nghiên cứu Pháp bằng cách nghe những bài thuyết trình thông thái giải thích cặn kẽ sự phức tạp của nó và hiểu thấu phương pháp để áp dụng vào thực tiễn. Do sự tu tập kiên trì, ta có thể loại bỏ những ô trược tinh thần đưa đến kết quả tâm trở nên thanh thản, bình tĩnh và hạnh phúc. Hoàn tất được trạng thái tinh thần như vậy sẽ dọn đường cho việc đạt được kiến thức cao hơn gọi là tuệ giác hay tuệ minh sát (Vipassana). Kiến thức nội tâm này khi phát triển vững vàng tức đạt vinh quang hoàn hảo của sự chứng đắc rực rỡ, điều có thể đạt được ngay trong hiện đời.

Lời giải nghĩa của Ðức Phật về chúng sanh và thế giới tạo thành kiểu mới nhất về tư tưởng con người. Căn cứ vào sự khám phá trên căn bản sự hiểu biết hữu lý, không dính dấp gì đến truyền thuyết thời đại, Ðức Phật đi sâu vào cốt tủy Pháp và xuất hiện với sự khám phá về sự hiểu biết nằm dưới tất cả sự hiện hữu có thể nhận thức bằng giác quan. Không độc tài hay độc quyền, Ngài tuyên bố Pháp- giáo lý thay thế cho tất cả giáo lý khác.

Pháp không liên quan gì tới bất cứ cái gì gọi là thần thông tối thượng, nhưng được trình bày bởi Ðức Phật trên cơ sở cá nhân, tức người này đến người kia cho phép hành giả nhận định và suy ngẫm cho chính mình những phương cách để đạt giải thoát không cần tìm đến sự giúp đỡ bên ngoài. Pháp có trên hoàn vũ, và là một lợi ích sống còn cho nhân loại tở bất cứ nơi nào trên thế giới vào bất cứ lúc nào.

Thật ý nghĩa Ngài đưa ra sự giải thích hữu lý và khoa học riêng của Ngài về tất cả những ngôn ngữ triết lý trước khi chúng được đem sử dụng trong giáo lý của Ngài về Pháp. Chẳng hạn trước Ðức Phật, Nghiệp chỉ có nghĩa là hành động, nhưng nay có nghĩa mới là ý muốn đằng sau hành động.

Pháp cao thượng không ngừng tố cáo sự bất công như chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, nô lệ và kỳ thị thân phận thấp hèn về phụ nữõ. Ðức Phật chẳng bao giờ là nhà độc tài mà là vị Ðạo Sư dân chủ.

Bắt đầu với Ba nơi Nương Tựa (Tirana), và cuối cùng dẫn đến việc đạt được hạnh phúc Niết Bàn, tín đồ của Ðức Phật thấy mình hết sức an ổn dưới sự hướng dẫn và che chở của Pháp đuợc tuyên bố là - Savakkhato.

2. Sanditthiko

Sanditthikođem ý nghĩa là nếu Pháp được nghiên cứu kỹ, và mang ra thực hành chân thành, kết quả lợi ích sẽ nhìn thấy ngay tại chỗ và ngay tức khắc. Chẳng hạn, ngay cả một người ác, có thể là một tai họa thực sự cho chính hắn và xã hội, tìm nương tựa nơi Ðúc Phật và Pháp, và bắt đầu một cuộc sống mới, tất cả những khó khăn và lầm than sẽ chấm dứt. Như đã được chứng minh bằng cuộc đời Hoằng Ðế A Dục Vương (Asoka), sau khi đi theo Phật Giáo, ông đã thay đổi từ một người cầm quyền độc ác gọi là Candasoka thành một người chánh đáng Dhammasoka.

3. Akaliko

Akalikongụ ý hậu quả lợi lạc từ việc tu tập Pháp không bị chậm trễ. Pháp, mặc dù khoảng thời gian dài từ khi được tuyên bố đã trôi qua, vẫn như mới và không hề hấn gì. Pháp tiếp tục tồn tại song song với tư tưởng khoa học mới nhất. Nếu có chân lý, chân lý ấy không bao giờ lỗi thời. Pháp là Chân Lý ấy không bao giờ già nua theo thời đại vì nó miêu tả sự thật nằm dưới tất cả hiện tượng hiện hữu trong luân hồi. Tóm lại, Pháp nói rằng thế gian là bất toại nguyện và chính cái tham này là nguyên nhân không tránh được về tình trạng các biến cố hiên nay. Biện pháp cứu chữa sự bất mãn này là loại bỏ lòng tham qua sự tu tập tám yếu tố khéo léo gọi là Bát chánh Ðạo.

4. Ehipassiko

Ehipassikolà công khai mời tất cả mọi người đến xem, điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng Pháp, và nếu cần phê bình trước khi chấp nhận vì không có điều gì là hoang đường hay huyền bí cả. Pháp trong sạch và trong suốt như pha lê. Nó nguyên chất như vàng thoi. Chính Ðức Phật đã tuyên bố: "Ðừng chấp nhận điều gì tôi nói, chỉ vì kính trọng tôi mà chấp nhận là không nên. Cũng như vàng nguyên chất chỉ biết chắc khi đem thử lửa hay mài rũa bằng đá mài, giống như vậy, Pháp chỉ nên chấp nhận sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng." Sự khẳng định không hề sợ sệt này cho phép nghiên cứu kỹ càng giáo lý chứng tỏ sự vĩ đại của Ðức Phật, và chân lý vững chắc của Giáo Pháp tuyệt vời.

5. Opanayiko

Opanayikocó nghĩa là tất cả những ai trung thành với Giáo Pháp, sẽ bước vào con đường dẫn đến hòa bình và hạnh phúc trường cửu. Pháp cho biết có bốn tầng thánh quả đạt được bằng cách phát triển theo thứ tự lớp lang. Pháp dẫn môn đồ từ tầng này đến tầng kia cho đến khi giải thoát hết tất cả những ràng buộc và gông cùm của cuộc sống.

6. Paccattam Veditabbo Vinnuhi

Nhóm từ trên ngụ ý Pháp được lĩnh hội bởi người trí. Không ai có thể thâm nhập Pháp thay thế cho người khác, giống như không ai có thể làm cho người khác hết khát trừ khi chính người khát phải uống nước. Quan sát thấy có hai khía cạnh có ý nghĩa trong thuật ngữ này: thứ nhất, đạt giác ngộ có tính cách cá nhân, thứ nhì, Giáo Pháp chỉ có thể thấu triệt bởi người trí.

Ðức Phật không phải là vị cứu thế mà là vị thầy - Người thầy chỉ con đường cho người khác theo. Phần còn lại là do cá nhân liên hệ phải giữ giới. Giữ Giới (Sila), tu tập Thiền Ðịnh (Samadhi), tập trung tư tưởng và sau đó phát triển huệ (Panna), trí tuệ trực giác giúp cho cá nhân thành công trong việc giải thoát bằng nỗ lực của chính mình.

---o0o---



Source : BuddhaSasana Home Page

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 52392)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6656)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 4953)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 51719)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9293)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20832)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 7783)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 12154)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 15161)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
09/05/2010(Xem: 3969)
Theo Lý Duyên Sinh của nhà Phật, tình yêu khởi đầu từ Thụ. Vì nhìn thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy hoặc tưởng tượng tới một người nào đó - dĩ nhiên tòan hương vị ngọt ngào, tòan những êm ái, tốt lành, mộng mơ, quyến rũ, đáng yêu, quý giá - mà sinh Ái (ham muốn)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567