Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

14/05/201312:26(Xem: 9928)
Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam

TP Hồ Chí Minh

Khóa III (1993-1997)

Nhân sinh quan Phật giáo

(Luận văn tốt nghiệp)

---o0o---

GSHD:TT Thích Trí Quảng

Ni sinh:Thích nữ Như Ngọc

---o0o---

Phần III:

ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Văn minh, văn hóa càng phát triển bao nhiêu thì công việc tổ chức thế giới của con người càng đa diện và phức tạp bấy nhiêu. Cứ nhìn những thanh niên nam nữ ngày nay, chúng ta đủ thấy môt thực trạng vô cùng lo ngại. Hơn nữa họ lại không ý thức được tình trạng của mình; Họ lao mình tới những văn minh, văn hóa ngoại lai trong một cơn sốt. Họ đang bệnh hoạn, hoặc suy thoái tinh thần, đang lâm vào cơn hiểm nghèo, chìm sâu vào khủng hoảng.

Khi phân tích con người thành ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức - nói theo từ hiện đại là thân thể, tình cảm, tư tưởng, tánh tình, tri thức - trí huệ đạo Phật cho chúng ta thấy cả năm thứ này đều chi phối con người từ khi mới sanh đến khi chết. Và đường hướng giáo dục toàn diện của đạo Phật là phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm. Nói cách khác, Ðức Phật không tách rời thân thể khỏi tâm trí con người.

Sau khi đã quán sát ngũ uẩn để biết rõ về con người và thế giới, chúng ta sẽ từng bước ứng dụng sự tu tập ngũ uẩn nhằm đạt lợi ích thiết thực qua một vài phạm trù sau:

1-Y học:

Cơ thể con người chẳng khác nào một bộ máy hoạt động không ngừng. Dù khoa học và y học có tiến bộ đến đâu chăng nữa, con người như một bộ máy vẫn bị luật vô thường chi phối. Tuy nhiên, nếu biết cách điều chỉnh thân tâm qua kinh nghiệm và những pháp vệ sinh, con người có thể kéo dài đời sống, tránh được tình trạng suy yếu, bệnh tật, xây dựng một nếp sống lành mạnh, tinh khiết.

Người Tây Phương có câu: ‘Một tinh thần minh mẫn ở trong một thân thể khỏe mạnh’. Thân thể khỏe mạnh có thể ví như ngôi nhà vững chắc hay con thuyền ra khơi thực hiện một chuyến du hành bình an với máy móc và thiết bị an toàn.

Thân con người thuộc sắc uẩn, do tứ đại hiệp thành nên phải dùng tứ đại bổ sung, như cơm, thuốc .. Người xưa thường nói: ‘Con người ta ăn để mà sống’. Về vấn đề điều hòa thân tâm để tu học, Ðức Phật luôn dạy người xuất gia là phải ‘Thiểu dục tri túc’.

‘ Vua Di Lan Ðà hỏi Ngài Na Tiên kỳ kheo:

-Sa môn có tự yêu thân mình không? Ðáp: - Không.

-Nếu chẳng tự yêu thân sao còn ở nhà mặc ấm, ăn thức ăn ngon và tự muốn bảo vệ nó?

Na Tiên hỏi gặn lại:

-Nhà vua đã từng vào chiến trận chứ? Ðáp : Có.

-Khi vào trận có bị thương chưa? – Có, vì bị dao đâm và tên nó chọt.

-Rồi Ngài làm sao? - Tôi lấy thuốc băng bó.

-Vì yêu vết thương mà băng bó hay sao? - Không phải, chỉ vì muốn nó mau lành.

Ngài Na Tiên nói:’ Các sa môn cũng thế, chẳng vì yêu thân, nên không ăn sang, mặc đẹp, chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng có sức khỏe phụng hành đạo pháp của Ðức Phật mà thôi.’[1]

Do đó, tuy dùng tứ đại bổ sung cho tứ đại, người xuất gia khi thọ thực vẫn thường quán tưởng, xem thức ăn như những món thuốc hay để trừ bịnh đói, nhằm trừ tâm đắm trước.

Theo đà phát triển của khoa học hiện nay, ngành Tây y đã chế ra nhiều loại thuốc kháng sinh, vitamin để trị liệu cho cơ thể con người. Tuy nhiên thuốc hay, đồ bổ cũng là con dao hai lưỡi, khéo xử dụng thì nó là bạn, còn dùng một cách tham lam tùy tiện thì con người sẽ là nạn nhân của thuốc do chính mình xử dụng. Thời hiện đại, con người mắc nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, nên việc hiểu biết những kiến thức y học cơ bản nhằm phát hiện được bệnh qua một số dấu vết để chữa kịp thời là điều cần thiết cho mọi người.

Như chúng ta đã biết ngũ uẩn cấu tạo nên cơ thể con người, chúng không thể tách rời mà luôn tác động hỗ tương cho nhau. Nhưng có thể nói trong hai phần Sắc và Tâm thì Tâm đóng vai trò chủ động tác động lên thân. Cổ Ðức nói: ‘Hữu tâm thì vô tướng, tướng tự tâm sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt’. Khi tâm hồn phấn khởi thì mọi vật đều nhuốm màu hồng, thấy đời có vẻ dễ chịu, không hoài nghi, thắc mắc. Nhưng khi cơn buồn sầu đến thì con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bị tách rời khỏi vũ trụ,cô lập khỏi xã hội.

‘Bởi vì mắt ngắm trời xanh

Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.

Bởi vì mắt ngắm biển khơi

Cho nên mắt cũng xa vời đại dương’

(Phạm Thiên Thư)

Ngành Ðông y ngoài việc bổ các loại thuốc cây cỏ lấy từ thiên nhiên cũng rất chú trọng đến phần tâm thần của con người. Theo Ðông y từ thất tình, lục dục, (hỉ, nộ, ái, ố..) tâm bịnh đã dẫn đến thân bịnh tác động vào lục phủ ngũ tạng như sau:

‘Ưu tư quá độ thương TỲ,

Buồn rầu thương PHẾ’, giận thì hại GAN.

Kinh sợ làm THÂN nguy nan

Vui mừng TÂM tổn nên an định thần.

(Lương Y An Triệu)

(thương : làm tổn thương)

Nếu hiểu thêm về pháp Ngũ hành, có thể dùng phương pháp ngôn trị(dùng lời nói) để làm giảm những nội kết đem lại thăng bằng cho thân tâm con người.

Ðó là những diễn biến tâm lý của thọ, tưởng, hành, thức mà chúng ta cần dùng trí quán để nhận ra nó và không bị nó cuốn trôi hay khiến mình thành nô lệ khổ đau. Bàn về pháp dưỡng sinh, Tổ Ðông Y Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh dạy phải ‘Thanh tâm quả dục’ (giữ tâm trong sạch, ít ham muốn).

Ðạo Phật luôn chủ trương hóa giải tận gốc thân bệnh cũng như tâm bệnh của con người. Ðối với Ðạo Phật, hạnh phúc thật sự là sự an lạc nội tâm. Hiện nay pháp Thiền của Phật giáo được rất nhiều người trên thế giới hâm mộ và thực hành. Họ không chỉ xem đây là phương pháp dưỡng sinh phòng chống bệnh tật mà còn tìm đến Thiền như một con đường quay về sự thăng bằng của nội tâm, giải tỏa stress, những trạng thái căng thẳng thần kinh, sự bất ổn về mặt tâm lý trong cuộc sống hiện tại.

Ngoài những phương pháp tọa thiền, an tịnh tâm với các đề mục quán chiếu, pháp Thiền quán được các vị Thiền sư hướng dẫn áp dụng trong mọi lúc con người hoạt động, gọi là ‘Chánh niệm’. Cần giữ chánh niệm trong mọi lúc, tức luôn dùng trí quán sát con người và thế giới chung quanh có cùng mối tương quan, tất cả như là huyễn, hòa hợp theo duyên. Nhận diện từng thọ, tưởng với trí quán liên tục sẽ tạo nên những hạt giống tốt huân tập vào tiềm thức (tâm thức). Cứ như vậy con người sẽ thấy một cuộc sống mới mở ra trước mắt. Nhờ đó, con người cảm thấy tự tin hơn và có thể phát triển khả năng sáng tạo, điều chỉnh, hoàn thành nhân cách; Cao hơn nữa là thể nhập được nội tâm, tự tại, an vui, làm tất cả nhưng không vương mắc vào bất cứ việc gì.

Vua Kosala một hôm bạch Phật rằng: ‘Khác với đồ đệ các tôn giáo khác thường hốc hác, xanh xao, ít ưa nhìn... , đồ đệ của Ngài luôn vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, thư thái.. ‘ Vua tin rằng : tính chất lành mạnh đó là do: ‘Những vị Thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của Ðức Thế Tôn’[2]

Chúng ta ngày nay tuy không được như những bậc Thánh xưa, nhưng vì chúng ta là đệ tử của Phật, hiểu lời Phật dạy, lúc nào chúng ta tỉnh giác, lúc đó chúng ta có an lạc.

2-Môi trường sống:

Hyppocrate, ông tổ nền Tây y, cho rằng môi trường thiên nhiên chung quanh luôn tác động đến con người; Vì thế người thầy thuốc phải quan tâm đến cách sinh sống, ăn uống, tuổi tác, hoàn cảnh, đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết chung quanh bệnh nhân. Nhưng gần đây, sự lo sợ một cuộc chiền tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại sau chiến tranh thế giới lần II lại được cộng thêm với một nỗi lo sợ mới là tai họa hủy diệt môi sinh, tai họa đưa con người vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.

Vấn đề bảo vệ sinh thái môi trường được đề ra tạo nên một phong trào lớn để con người nỗ lực đấu tranh cứu vãn sự sống của con người trên toàn thế giới trước thực trạng ô nhiễm, suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái này đã làm kiệt quệ dần dần môi trường sống của con người và hàng trăm triệu loài động vật trên hành tinh này.

Phật giáo không chủ trương tách rời tâm khỏi vật, con người khỏi môi trường; Môi trường hay thế giới với con người ngũ uẩn là một. Thế mà, hành tinh của chúng ta đang bị ô nhiễm từ lòng đất, nước biển, sông, hồ, rừng cây, làng mạc, đô thị và cả bầu khí quyển đang bị tam độc tham, sân, si thúc đẩy. Vì lạc thú, vì lợi lộc, vì hận thù, con người bằng vô số hình thức đang hủy hoại môi sinh, tức đang hủy hoại mình và vô số chúng sanh khác’.[3]

Con người ngày nay chỉ biết có xã hội loài người, nhất là đối với con người sống nơi thành thị, hầu như lúc nào cũng nhìn thấy không gì hơn là những sự vật do con người tạo ra từ sự phát triển của xã hội. Họ đã quên hẳn thế giới thiên nhiên và hủy hoại thiên nhiên để chạy theo nhu cầu văn minh vật chất.

Quay về vũ trụ và thọ hưởng nó, không phải là độc quyền của những thi sĩ và nghệ sĩ. Vũ trụ sẽ tiết lộ cho bất cứ ai muốn thấy nó. Những kẻ chìm đắm, sa đọa phải ngước mắt nhìn vũ trụ và thấy chính mình là một phần của vũ trụ.

Khi Phật còn tại thế, việc bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, nhưng với lòng từ bi cứu khổ và trí tuệ sáng suốt, Ðức Phật với vai trò bậc Ðạo sư đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và hội chúng Tăng già một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một đạo tràng tu tập hướng tới giác ngộ và Niết bàn.

Trong nhiều bài thi kệ ngộ đạo, các vị thiền sư luôn thể hiện rõ ý này:

‘Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai’.

(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác thiền sư) 

Dịch nghĩa:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Ðêm qua sân trước một cành mai’

(Bản dịch của HT Quảng Ðộ)

Cảnh Xuân đến, Xuân đi, hoa nở, hoa tàn, phải chăng là nhũng bài học sinh động của thiên nhiên dạy chúng ta về cuộc đời vô thường, các pháp vô ngã... và trong bức tranh vô thường đó, thiền sư vẫn cảm nhận sự sống là bất diệt.

Như thế, Ðức Phật đề cao một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và hài hòa với cả con người với tâm vô lượng. Phật tử đến với thiên nhiên như con ong đến với hoa:

‘Như ong chỉ lấy nhụy

Không hại hương sắc hoa

Cũng vậy vị Sa môn

Ra vào giữa thôn làng’

(Pháp cú 49)

Thiên nhiên yên tĩnh rất thích hợp với pháp thiền quán của Phật dạy. Người Phật tử chúng ta phải học theo nếp sống của Bổn sư, sống gần thiên nhiên, xa chỗ ồn ào, bụi bặm, đưa thiên nhiên đến tận trong nhà mình. Làm như thế, tức là truyền đạo, hành đạo. Không những xây dựng môi trường tu học lý tưởng đem đến sự yên tĩnh, sự tiến bộ về trí huệ cho tâm hồn được giải thoát tự tại còn góp phần bảo vệ được môi sinh cũng là bảo vệ lấy chính mình. 

3- Phát triển tâm linh:

Khi đã hiểu rõ ngũ uẩn là hiểu rõ chính mình. Từ đó, chúng ta tu tập để đưa tâm thức lên tầng cao hơn. Ðó là từng bước chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành Ngũ uẩn vô lậu.

Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào phápchính bản thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy luật tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay một quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:

Làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (tu tập Tứ niệm xứ)’[4]

Từ chỗ có cuộc sống nội tại vững chắc, con người có được trí óc bình tĩnh sáng suốt với cái nhìn toàn diện về mọi sự vật. Trong Kinh Hoa Nghiêm, tiến trình chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành vô lậu rất rõ ràng qua việc trình bày mười thân Phật.

Ngũ uẩn là căn bản xuất phát của muôn sự muôn vật. Ðức Phật cũng dùng thân ngũ uẩn này để làm Phật sự. Chúng ta cũng phải tu tập để không bị ngũ uẩn chi phối, không làm nô lệ cho nó dù mang thân vật chất kẹt với sắc uẩn, luôn bị bốn tướng nóng, lạnh, đói, khát ràng buộc. Ðiểm trọng yếu là ở chỗ đào luyện tâm. Chỉ cần sống với Thức uẩn, dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng không bị bốn tướng này chi phối.

‘Cần theo dõi và chuyển hóa phiền não trong tâm, không nên đè nén vì càng đè nén nó càng lớn. Nguyên tắc tương tức bất nhị của sự tu học là:

-Nhờ những tư tưởng, hành động (hạt giống tốt) để chuyển hóa.

-Nhận diện chúng, khi chúng xuất hiện trong ý thức

-Mời nó lên, trực diện với phiền não dưới ánh sáng chánh niệm.

Cứ mỗi ngày quán chiếu một ít dưới chánh niệm (trí huệ), chúng ta sẽ chuyển hóa được những niềm đau làm chúng ta sợ.’[5]

Ðau khổ cũng như mọi hiện hữu khác, là cần thiết cho tuệ giác nếu ta biết quán chiếu nó, nhìn sâu vào bản chất nó để tìm lối ra. Vì vậy, đau khổ là một Thánh đế, một sự thật linh thiêng, vì nó giúp ta giác tĩnh đi nhanh ra khỏi tham ái và chấp thủ để vào các Thánh quả.

Từ ngũ uẩn làm gốc, theo cái nhìn của Hoa Nghiêm, mọi vật trên cuộc đời từ dòng suối chảy đến tiếng chim, ngọn lá ... đều tỏa ánh sáng, mọi thứ đều là pháp thân của Phật. Nó như thế và muôn đời vẫn thế. Ðây là thế giới Hoa Nghiêm và là nơi kinh Pháp Hoa nói:

Chư Pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng’

Nhìn rõ cuộc đời và con người, ta phải tạo dựng một tri thức vững chắc trên thân bao gồm những đức tính tốt đẹp và một thân thể khỏe mạnh với đủ ba phước tướng: Tâm hoan hỉ, thân khỏe mạnh, và bạn bè tốt.(TT. Trí Quảng). Từ đây, ta có thể vào đời làm lợi ích cho nhân sanh theo hạnh nguyện của Bồ Tát và có thể tu tập đến những bước cao hơn.

‘Khi đã đầy đủ tâm từ bi, tròn hạnh Bồ tát kết thành Như Lai thân, hành giả không còn phải dấn thân như Bồ tát, không ẩn cư như Duyên giác, không trao đổi, sách tấn tu như Thinh văn. Như Lai không từ đâu tới và không đi về đâu. Chính thân đó tác động qua các loài chúng sanh, giáo hóa mọi người mà không cẩn cử thân động niệm. Như Lai như như bất động mà hóa độ chúng sanh bằng trí của Ngài và trí Như Lai chiếu đến đâu thì ở đó là Pháp thân. Ðó là Như Lai huệ chiếu vào vũ trụ, là trạng thái Chơn như bừng sáng với trí huệ thấu suốt mọi vật.’[6]

Ðấy cũng chính là chỗ mà Thiền sư Pháp Thuận đã nói:

‘Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh’ 

Trong hiện tại chúng ta cần luôn quan sát với trí huệ Bát nhã thấy ngũ uẩn là trống không, không tự ngã chứng nhập đương thể vô ngã của các Pháp. Ðương thể ấy vô sanh nên vô đắc. Cho nên thấy có Niết bàn mà không thấy có người đắc, tự tại không vướng mắc gì. Ðó là Niết bàn ngay trong hiện tại, như Hòa Thượng Thiền Ấn đã có kệ:

‘Tánh tịnh tướng, tướng tịnh tánh. Phi trung, phi ngoại liễu đốn siêu.

Tâm sanh Pháp, Pháp sanh tâm. Bất tức, bất ly, hành thâm tự tại.’ 



[1]Kinh Lời Vàng, HT Trí Nghiêm dịch, THPG TPHCM, 1992. tr. 99

[2]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 49

[3]Trích phát biểu của HT Minh Châu; Một số vần đề cơ bản về sinh thái môi trường.

[4]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 92

[5]Giảng luận Duy biểu học, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr. 310

[6]Quan niệm về Ðức Phật trong kinh Hoa Nghiêm, TT Trí Quảng.

---o0o---


Vi tính: Tâm Diệu

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/02/2012(Xem: 4110)
Trong hai thập kỷ qua, tôi đã tiếp xúc liên tục với các cộng đồng Phật giáo, trong cả hai: văn hóa truyền thống và công nghiệp hóa phương Tây. Những kinh nghiệm này đã làm cho tôi nhận thức được rằng sự phát triển công nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến cách sống của chúng ta, nhưng còn là quan điểm thế giới của chúng ta. Tôi cũng đã học được rằng nếu chúng ta muốn tránh một sự hiểu sai đối với giáo lý Phật giáo, chúng ta cần phải xem xét chặt chẽ vào sự khác biệt cơ bản giữa các xã hội là bộ phận của nền kinh tế toàn cầu công nghiệp hóa và điều này phụ thuộc vào nhiều nền kinh tế địa phương.
15/02/2012(Xem: 4008)
Đức Phật xuất thân từ một chiến binh đẳng cấp và ngài được sinh ra trong xã hội với các vị vua, hoàng tử và các quần thần. Mặc dù nguồn gốc và sự liên hệ của Ngài như thế, Ngài không bao giờ viện đến sự ảnh hưởng của quyền lực chính trị để giới thiệu trong sự giảng dạy của Ngài, và cũng không cho phép Giáo pháp của Ngài lạm dụng sự ảnh hưởng này để đạt được quyền lực chính trị.
15/02/2012(Xem: 4435)
Lý tưởng nhất, giáo dục là công cụ chủ yếu của việc tăng tiến con người, cần thiết cho việc thay đổi trẻ con mù chữ thành một người lớn trưởng thành và có trách nhiệm. Tuy nhiên, ngày nay ở khắp mọi nơi, cả trong các nước phát triển và các nước đang phát triển, chúng ta có thể thấy rằng hình thức giáo dục đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Sự giảng dạy lớp học đã trở thành thông lệ và được vỗ về rằng trẻ em thường cân nhắc việc học và thực tập trong sự kiên nhẫn chứ không phải là một cuộc mạo hiểm trong học tập.
14/02/2012(Xem: 7284)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
25/01/2012(Xem: 5726)
Phật tử phải có trách nhiệm bảo tồn và duy trì di sản Phật đã để lại. Phật tử phải sống với triết lý của vô thường và tìm ra những phương thức mới để khuyến khích đa số quần chúng.
25/01/2012(Xem: 5680)
Tôn giáo có mặt cùng thời với lịch sử con người. Có vật chất, tất phải có tinh thần. Có sống chết, có hiện tượng còn mất trong đời sống vật lý, tất phải có các mô thức tâm lý và tâm linh để chống lại sự mất còn bèo bọt đó. Từ đấy, tham vọng bất tử của con người là phải xây dựng một hệ thống thần linh để nuôi lớn hy vọng (có thật)thành đức tin (ước mơ)rằng, con người sẽ sống đời vĩnh hằng sau khi chết trong một thế giới thiêng liêng của thần linh... Sự chuyển mình từ sức mạnh thần quyền sang sức mạnh nhân quyền trong nhiều khía cạnh vi tế và phức tạp của đời sống đã làm cho đạo Phật mỗi ngày một hiển lộ trước cái nhìn tỉnh thức của nhân loại.
09/01/2012(Xem: 14000)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau. Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú...
07/01/2012(Xem: 7562)
Trong sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội ngày nay, phật tử khắp nơi trên thế giới trở nên linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lẫn truyền bá tư tưởng đạo Phật của họ. Với con số khoảng 500 triệu phật tử, đạo Phật được xem là tôn giáo lớn nhất thứ tư của hành tinh này. Đạo Phật có hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, trong đó gồm có môn Thiền quen thuộc cùng những bản kinh dịch khác nhau của người Tây Tạng...
05/01/2012(Xem: 4948)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bản và thiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và ngay thẳng để thông cảm giữa những quốc gia, chủng tộc, cộng đồng và tôn giáo, nhằm mục đích thiết lập một cuộc sống ổn định, hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Việc diệt trừ tham ái thì có rất nhiều lợi ích, mang lại cuộc sống an lạc, hạnh phúc và giải thoát ngay trong cuộc đời này. Trên thực tế thì có rất nhiều lợi ích, ở đây người viết chỉ nêu những lợi ích chính về hòa bình, về môi trường, và đạo đức.
31/12/2011(Xem: 7145)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]