Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III.- Cứu cánh giải thoát

13/05/201317:31(Xem: 2914)
III.- Cứu cánh giải thoát

ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI

HT. Thích Tâm Châu
Tổ Đình Từ Quang, Canada, 1982
---o0o---

III .- CỨU CÁNH GIẢI THOÁT

" Khi tâm trí nhận thấy mọi sự cấu tạo đều vô thường, bản ngã là đau khổ và hư huyễn, lúc đó tâm trí mới hợp nhất với bản thể bất diệt của cõi Niết Bàn tuyệt đối "

Kinh trường A Hàm

Giải thoát

Giải thoát là mục đích tối cao, là phương pháp cứu cánh của đạo Phật. Giải thoát sẽ ứng hiện ngay nơi tâm hạnh của con người nếu con người muốn cứu cánh giải thoát và giải thoát cứu cánh.

Tâm niệm con người luôn luôn xao động, nhịp nhàng với vọng tưởng điên đảo và phiền não chấp trược. Chấp trược hình sắc là thường còn, là đẹp tốt, là xấu xa, là người, là ta v.v...

Chấp trược sự cảm thụ là sung sướng là đau khổ, là không sướng, không khổ. Chấp trược tư tưởng là hay, dở, phải, trái là không hay, không dở, không phải, không trái. Chấp trược những hành động là đúng, là không đúng, là hợp lý, là không hợp lý. Chấp trược sự nhận thức là cá nhân, gia đình, quốc gia, núi, sông, đất đai,vuông, tròn, to, nhỏ v.v...

Đã chấp trược cố nhiên phải ham muốn và bảo thủ. Đã ham muốn, bảo thủ tức là bị ham muốn, bảo thủ chi phối và ràng buộc. Trong hoàn cảnh bị chi phối, ràng buộc con người chịu bao nổi đau khổ, áp bức, thiếu tự do, có khác chi tù nhân bị giam cầm nơi ngục thất. Con người sở dĩ bị ràng buộc như thế một phần nhỏ bởi ngoại cảnh, một phần lớn tại nội tâm gây nên. Và những nổi áp bức, giằng xé, thúc đẩy của dục vọng lại càng khắc nghiệt bằng mười hoàn cảnh chung quanh. Ngục thất giam hãm của cường quyền bất công còn rộng rãi hơn ngục thất tối tăm của cái " ta " ích kỷ. Những xiềng xích trói buộc tù nhân còn ít bền chắc hơn những xiềng xích của ham muốn đê hèn trong mỗi cá nhân.

Nhận thấy cảnh nô lệ đáng thương của con người bởi dục vọng gây ra, nên đạo Phật chú trọng nhất đến sự giải thoát cho mỗi người bằng phương pháp diệt dục. Dục vọng càng bớt, tự do càng nhiều, cái vỏ ích kỷ bị phá vở, tâm hồn càng được phóng khoáng thảnh thơi. " Gió muôn phương chỉ bay về nơi khoảng rộng, lòng người tự bưng bít không thể cảm thông được với ý tình muôn hướng ".

Muốn giải thoát tức là muốn cởi mở sự chi phối, ràng buộc, muốn ra khỏi nơi áp bức giam cầm để hưởng lấy niềm vui vẻ hồn nhiên, hấp thụ bầu không khí tự do và tắm trong ánh nắng của độc lập huy hoàng, chân như thực tế, đem lại lợi ích cho mình và cho người.

Bỏ ham muốn, dùng ham muốn loại bỏ ham muốn, không bị ham muốn chi phối là cứu cánh giải thoát, là giải thoát cứu cánh.

1.- HIỂU BIẾT LÝ VÔ THƯỜNG

" Chúng ta không bao giờ tắm hai lần cùng một dòng sông ".

Héraclite

" Tất cả các Pháp, sự vật, động hay bất động trong thế gian đều là tướng hư hoại vô thường ".

Vũ trụ không tĩnh, vũ trụ luôn động, vũ trụ không phải là ao tù, vũ trụ là một ngọn thác luôn luôn chảy xiết, các giọt nước hợp thành luôn luôn kế tiếp thay đổi.

Sự vật không có thực thể, sự vật chỉ do các nhân duyên phát sinh, tồn tại, tiêu diệt trong sự chuyển biến không ngừng và hòa đồng với không gian vô biên, thời gian vô tận.

Cái bàn là tổng hợp tướng của đinh, gỗ, công phu người thợ, nhưng nó sẽ là vật vô dụng của một ngày kia hư hỏng. Cái nhà là kết quả của bao nhiêu vôi, gạch, ngói, đất, gỗ, cát, công nhân và sẽ đem lại một hình tướng không ngờ của ngày đổ nát. Cái áo xanh xinh đẹp của cô thiếu nữ mặc trên mình cũng chịu cho định lý nhân duyên chi phối và ngày lại ngày sẽ phải phai lạt, sẽ nhuốm màu thời gian mà ngã sang một màu khác. Cho đến cái kim, cái tách cũng thế và cũng bị tan vỡ... Nghĩa là tất cả đều bị định lý vô thường chi phối. Định lý ấy chưa lúc nào chứng tỏ một cách rõ ràng bằng đời hiện tại.

Tìm hiểu để xây dựng

Định lý vô thường, đem lại cho chúng ta một trực nhận : Sự vật không phải là chân thật, bền bỉ và thường còn , sự vật không phải là đơn độc riêng biệt trong những thành kiến ích kỷ và tư hữu, do đó nó thúc dục con người dứt bỏ lòng ham muốn, chấp trược nơi mình, mạnh dạn bước vào đời, xây dựng nền an lạc, giải thoát cho nhân loại.

Hiểu biết lý vô thường để thể nhập tính chân thường.

2.- HIỂU BIẾT LÝ VÔ NGÃ

" Chúng sanh là giả danh tiện dụng, để chỉ một kết hợp của nhiều nguyên tố không bền vững : Mọi pháp luôn biến đổi ".

A. Migot

Vô ngã

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói : " Bốn phần lớn ( tứ đại ) trong mình ta mỗi phần đều có một tên riêng, đều không có gì là " ta " cả. Đã không có ta thì nó chỉ là trò dối mà thôi ! "

Cái ta chỉ là một danh từ trống rỗng, nó là hình thành của nhiều yếu tố khác như : đất, nước, gió, lửa v.v...

Nó dựa vào cá nhân, quốc gia, xã hội hay lý tưởng mà có sự phân biệt. Nó luôn luôn chuyển biến trong vòng sinh, trụ, dị, diệt.

Cái " ta " năm phút sau không còn là cái ta của mấy phút trước. Sợi tóc giờ đây không còn là sợi tóc vừa rồi. Nó thay đổi, nó làm cho mái tóc xanh dần dần sẽ điểm bạc, cái thân tráng kiện, năm tháng sẽ yếu già. Có điểm bạc, có yếu già, tức là không có cái gì đủ sức bảo đảm chắc chắn cho nghĩa chữ " ta " nữa !

Tất cả đều không có ta ( vô ngã ) nếu ly khai tất cả.

Khi cái đã không còn thì dục vọng còn dựa vào đâu để đòi hỏi cho cái ta riêng biệt. Ích kỷ cũng không còn thấy cái kỷ để mà ích. Biên giới thành trì ngăn cách giữa mình và người được san phẳng sự tranh chấp sẽ không còn, mình và người sẽ giao hòa trong một biển sống mênh mông không bờ lũy, không ngần ngại và nắm chặt tay nhau, cùng nhau chung sức xây dựng nền hòa bình vĩnh cửu và hạnh phúc chân thật cho nhân loại.

Đạo lý vô ngã là động cơ thúc đẩy con người dũng tiến trong công việc phụng sự nhân loại.

3.- THỰC HÀNH GIỚI, ĐỊNH, TUỆ

" Trên đường tu tập, gắng làm tăng trưởng những khả năng nội thức, để phát sinh trí tuệ. Trí tuệ sáng suốt thì những vọng động hỗn độn và mờ ám được tiêu trừ ".

Pau Adam

Giới, Định, Tuệ là nguyên tắc tu, học và hành để thực hiện mục đích giác ngộ và giải thoát

Nhà khoa học đem lại một kết quả thực tế cho nhân loại không phải là ít công phu trong sự tìm hiểu, gạt bỏ loạn tưởng, lắng tâm bình tĩnh và nhận định sáng suốt. Con người muốn thành người, muốn giải thoát cũng không thể thiếu được Giới, Định, Tuệ. Ngài giác ngộ trong lúc tâm trí vẳng lặng và sáng suốt hoàn toàn. Sự giác ngộ của ngài không những là tự giải thoát mà còn là một gương sáng hoàn mỹ soi tỏ và đem lại cái chân lý sẳn có nơi chúng sinh mà chúng sinh không hiểu. Chân lý ấy ở bất kỳ cá thể nào, ở phương sở nào nó chỉ đòi hỏi một tâm trí trong lặng, sáng suốt và hòa hợp với một lòng thương rộng lớn là sẽ thấy được nó, tức là được giác ngộ, được giải thoát.

Giới, Định, Tuệ là ba môn học không dời đổi, là chìa khóa mở cửa ngõ Niết Bàn giải thoát.

A.- THỰC HÀNH GIỚI HỌC

" Giới bổn rất cao quý, nguyên tịnh để dìu dắt chúng sinh đến nơi giải thoát "

Lời Phật dạy

" Giới " là lời răn dạy, ngăn cấm không được làm sự gì trái với sự thật, trái với điều thiện, trái với đường lối giải thoát. " Giới " là phương pháp điều trị những tội lỗi do thân, miệng, ý phát sinh ra, hầu đem lại lợi ích cho mình và cho người.

Trong khi thực hành giới học, cần nhất phải giữ gìn thân, miệng bề ngoài cho đúng với Giới luật thì tâm trí bên trong mới được trong sạch. Trong, ngoài trong sạch, tất nhiên dung nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ.

muốn đạt đến chỗ ngộ, cần phải hướng về những giới điều dưới đây :

a/ Nhiếp luật nghi giới

Là những Giới luật, uy nghi có công năng gìn giữ thân tâm, không phạm vào những điều ác, khiến thân tâm được an định, trong sạch như năm điều răn v. v...

b/ Nhiếp thiện pháp giới

Là những Giới luật răn làm những việc lành, lợi mình, lợi người như làm mười điều thiện v.v... Nhờ vậy mà phúc đức, uy tín, tự do được thêm lên, khỏi vương vào sự ràng buộc của cảnh giới người và không còn bị cảnh giới người chi phối

c/ Nhiếp- ích hữu tình giới

Là những lời răn dạy để hóa độ, cứu giúp chúng sinh làm những hạnh cứu độ và lợi ích cho toàn thể.

Như thế nếu thực hành đúng Giới học tất nhiên thân tâm được giải thoát được mọi sự ràng buộc và không sinh khởi ra những hành vi trái lẽ phải. Nhờ có sức mạnh của Giới học mà có thể vượt trên sự chi phối của ngoại cảnh, của nội tâm, để tìm đến sự thật, để đạt tới chỗ giải thoát chân thật.

B.- THỰC HÀNH ĐỊNH HỌC

" Trong cõi vẳng lặng hoàn toàn của nội thức, tâm hồn được an vui thanh tịnh ".

Caufernau

" Định " là một phương pháp chú tâm vào một cảnh, không cho tâm tác động tán loạn và không cho tâm rong ruổi theo các duyên, vì rong ruổi tất sinh vọng niệm, đã có vọng niệm thời bị mê mờ. Nên tu định là cốt trừ những vọng niệm, những tư tưởng mê lầm.

Muốn được như thế điều kiện trước nhất là phải dứt bỏ các món tà niệm bằng cách đem những tư tưởng chân chính mà ngăn dẹp. Nghĩa là trong khi đi, đứng, nằm, ngồi có tà niệm khởi lên cần đem chính niệm nén dẹp ngay lại. Khi diệt được tà niệm rồi vẫn còn những niệm tưởng trong sạch loạn động luôn luôn khởi diệt lại cần phải dứt luôn những niệm tưởng ấy tâm mới được an định.

Khi giữ tâm định rồi phải luôn xa cái niệm gìn giữ cho tâm định ấy tức là tự tâm an trụ không còn vọng động nữa, vì nếu còn niệm gìn giữ cho tâm định là còn vọng niệm.

Trong sự thực hành để đạt tới chỗ thành tựu, cần phải áp dụng những pháp môn sau đây tùy theo trình độ của từng người :

a/ Pháp môn sổ tức

Tu hành phương pháp điều hòa hơi thở, rồi y theo hơi thở ra vào, khiến tâm không loạn động.

b/ Pháp môn tịnh niệm

Giữ niệm cho trong sạch an tĩnh, khiến tâm an trụ vào một niệm thanh tịnh.

c/ Pháp môn thiền định

Thiền là nhất tâm quán vật, định là nhất cảnh tịnh niệm. Là pháp môn dùng sự suy nghĩ mà nghiên cứu, tìm xét cho đến nhất cảnh thanh tịnh.

Định học đem lại cho tâm trí được điều hòa khỏi tán loạn, tối tăm, trí tuệ được phát triển và năng lực được phát sinh, nếu biết thực hành đúng phương pháp của nó

C.- THỰC HÀNH TUỆ HỌC

" Nếu người có trí tuệ soi tỏ mọi lẽ thì dù là con mắt thịt mà chính là người thấy tỏ hết cả ".

Kinh Di Giáo

" Tuệ" là phân biệt sự , lý, lựa chọn các pháp, dứt sự nghi ngờ, chứng lý chân thật, Tuệ là khả năng khai sáng của tâm trí, quán chiếu sự vật, thể nhập và chứng ngộ chân lý. Tuệ là pháp sáng suốt của tự tâm, luôn luôn thường còn và ai ai cũng sẳn có, chỉ vì mê mờ nên không tự biết, làm cho trí tuệ không được phát triển.

Phương pháp cần thiết

Trong khi thực hành tuệ học, trước hết nên y cứ nơi văn tự để xét nghĩ và hiểu rõ chính lý, rồi dùng chính lý ngăn dẹp tà niệm. Khi tà niệm đã hết chỉ còn chính tuệ thì dùng chính tuệ soi sáng sự vật, phát triển sự thật. Đến khi chính tuệ đã thể nhập được chân lý, giác ngộ được sự thật, tính sáng suốt của tự tâm luôn luôn xuất hiện là thành bậc chính giác.

Như thế nhờ có tuệ học sẽ dứt trừ được phiền não mê lầm, biết được thực tính, thực tướng của sự vật, soi rõ tâm, cảnh là chân không và chứng ngộ được chân lý như thật.

Tóm lại, chủ đích của đạo Phật là muốn toàn thể chúng sinh giác ngộ được sự thật, sống theo sự thật, để được tự tại và giải thoát. Nhưng, muốn được thế cần phải lấy sự hành trì làm căn bản, mà nguyên tắc chính của tất cả sự hành trì là Giới, Định và Tuệ. Vậy chúng ta nên đặc biệt chú trọng vào ba môn đó mà thực hành. Vì chỉ có sự thực hành theo đúng nguyên tắc căn bản mới đưa đến mục đích giải thoát và giác ngộ của đạo Phật.

" Nếu ai ráng tu tập và trao dồi tâm trí để thoát khỏi vòng phiền não : tham, sân, si tất nhiên người ấy sẽ được hoàn toàn giải thoát ".

D.- THỰC CHỨNG SỰ LÝ GIẢI THOÁT

" Đạo diệt khổ tức là chân đạo, ngoài ra không còn đạo nào khác nữa "

Kinh Di Giáo

" Giải thoát là chung kết của sự mong muốn tương đối và sự hiểu biết hoàn toàn tuyệt đối "

Giải thoát là xu hướng chung của loài người. Trong khi con người đang lâm vào hoàn cảnh đau khổ, mê lầm, tất nhiên con người chỉ mong cầu được an lạc giải thoát. Nhưng sự mong cầu ấy, ít khi đem lại cho họ một kết quả mỹ mãn, vì họ chỉ tìm giải thoát nơi ngoài mình, chứ họ không tìm giải thoát nơi trong mình. Chính con người là nguyên nhân, là hình ảnh của đau khổ, mê lầm thì con người cũng là nguyên nhân, là hình ảnh của an lạc giải thoát. Cho nên khi nào con người biết dứt bỏ mê lầm, hiểu thấu chân lý, coi những sự khoái lạc, huy hoàng đều là giả dối, biết vận dụng làm lợi ích cho chúng sinh lúc đó mới là giải thoát chân thật hoàn toàn cả sự lẫn lý.

" Tự tín chân thật còn mê mờ thì phúc nào cứu thoát được "

Kinh Pháp Bảo Đàn

Căn cứ vào sự, lý giải thoát, nơi đây có thể phân tích làm ba loại :

a/ Giải thoát về hoàn cảnh

Hoàn cảnh con người nhiều khi đem lại cho con người một sự đau khổ trực tiếp nên con người chỉ mong cầu một đời sống rộng rãi, tự do, không bị ràng buộc về vật chất cũng như về tinh thần, tùy theo tư tưởng của con người.

_ Có người muốn sống một đời sống vật chất đầy đủ như cơm ăn, áo mặc, vật dụng, vợ đẹp, con xinh, nhà cao, cửa rộng, quyền thế to tát, giàu có thừa thải và không bị một quyền lực gì áp bức, kìm hãm, mặc sức cho họ thỏa mãn dục vọng.

_ Có người muốn xa lìa vật chất, coi vật chất là mồi ngon của dục vọng, là trợ lực của đấu tranh, họ chỉ muốn tìm nơi thanh vắng để huân tu đạo nghiệp. Khi tu tập đã thành công thì vật chất bên ngoài không thể chi phối được họ, do đó mà họ được giải thoát.

So sánh hai quan niệm giải thoát hoàn cảnh trên đây, thì thấy họ đều nghiêng về một phương diện, một bên ưa sống trong đời sống vật chất đầy đủ, một bên không quan tâm đến vật chất bên ngoài, chỉ cần rèn luyện tâm trí mà thôi. Đã nghiêng về một phương diện quyết định chưa được giải thoát hoàn toàn

b/ Giải thoát về tự tâm

Con người tuy đã vượt qua được hoàn cảnh ràng buộc theo ý muốn của mình nhưng, chưa thể giải thoát được nỗi thống khổ lớn lao do nọc độc : tham, sân, si... phun ra. Đói cơm thiếu áo là khổ thì dục vọng là hiện thân của tham, sân, si cũng không phải là kém phần đau khổ. Thực tế đã chứng minh : biết bao người ngậm hờn trên gấm vóc, nuốt lệ trong ngọc ngà, kết cuộc họ cũng có thể chết mòn mỏi như những người nghèo đói, rét mướt, hoặc còn khổ hơn và chiếm phần đa số là khác. Nghĩa là họ bị dục vọng tham, sân, si thúc dục.

Muốn giải thoát trong mọi nổi thống khổ ấy không chi bằng diệt trừ nguyên nhân đau khổ, tức diệt trừ lòng ham muốn, giận dữ và si mê, mở rộng một đường thẳng đến mục đích của giải thoát lâu dài, vượt ngoài vòng sinh tử luân hồi.

" Chỉ không còn sinh tử mới là an vui tuyệt đối ".

Kinh Đại Niết Bàn

c/ Giải thoát hoàn toàn

Con người đã thoát khỏi sự ràng buộc của phiền não, thoát ly được sinh tử luân hồi nhưng vẫn chưa được hoàn toàn giải thoát, vì còn có tướng giải thoát. Nghĩa là còn sự chấp trược là " được giải thoát ". Còn chấp trược tất nhiên sự hiểu biết chưa được cứu cánh, sự thực hành chưa được dung thông. Trái lại khi nào sự hiểu biết không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý, sinh lý tầm thường chi phối, ra vào chỗ trong sạch không vui thích, chỗ ô uế không nhiễm trược, tức là lúc nào đã chứng nhập được chân tướng của sự vật, thể nhập bản thể của vũ trụ và được tự tại vô ngại, thì lúc đó mới là giải thoát cứu cánh. Bản chất của gương là trong sáng, thì để đâu cũng sáng, sự vật nào soi vào cũng được, soi xong gương vẫn là gương, trong sáng vẫn là trong sáng. Bản chất của cây sen, hoa sen là trong sạch là vô ngại thì ở khoảng bùn tanh hôi cũng vẫn như như bất động.

Bản thể của điện là nhanh, sáng, thì mặc dầu dùng vào hình thức nào nó vẫn nhanh sáng và khi ly khai hình thức ấy ra nó vẫn là " điện ".

Như thế, giải thoát cứu cánh có nghĩa là không còn một chút gì ràng buộc trong sự hiểu biết và thực hành mà đều được viên dung, tự tại.

Cho nên trong hành vi, trong ý nghĩ của người nào mà có được đôi phần đức tính của chân giải thoát thì mới thật là con người có giải thoát, có an vui và có lợi ích thật sự cho tất cả mọi người, mọi vật.

Kết luận

Con người cùng nhịp nhàng trong bản thể vũ trụ, cùng chịu luật tiến hóa chung của vũ trụ, nhưng kèm theo với đặc tính và hình thể riêng biệt, tùy thuộc vào định luật nhân quả của nó.

Con người là chủ nhân ông của tất cả hành vi, sự nghiệp của con người. Con người được thành người hay được giải thoát cứu cánh chỉ khi nào con người biết rèn luyện thân tâm, hiểu biết nghĩa vụ, diệt trừ ham muốn, thẳng tiến trên đường lợi sinh, không còn bị hạn chế và ngăn ngại.

" Con người là tất cả và trên tất cả ! ... "

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8144)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16493)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12473)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19925)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4432)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4312)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5030)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4260)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4240)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11591)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567