Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 4 Bổn Phận và Trách Vụ của Cư Sĩ

13/05/201314:20(Xem: 4023)
Chương 4 Bổn Phận và Trách Vụ của Cư Sĩ

CẨM NANG CƯ SĨ

Tâm Diệu

CHƯƠNG 4

BỔN PHẬN VÀ TRÁCH VỤ CỦA CƯ SĨ

Cư sĩ, nói chung là một người có nhân cách, trách nhiệm và bổn phận với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội. Đối với Phật giáo, bất cứ một người nào, không phân biệt hoàn cảnh xuất thân, mầu da hay địa vị xã hội, phát nguyện theo Phật, Pháp và Tăng (Tam bảo), giữ năm giới (Ngũ giới), hành 10 điều thiện và tu học tại gia được gọi là Cư sĩ Phật giáo. Nói một cách đơn giản thì Cư sĩ Phật giáo là những Phật tử chuyên tu học tại gia.

Cư sĩ Phật giáo là một trong hai thành phần đệ tử của Đức Phật: Xuất gia và Tại gia. Đệ Tử Xuất gia, giữ 10 giới gọi là Sa Di, giữ 250 giới gọi là Tỳ khưu. Nữ tu sĩ giữ 348 giới gọi là Tỳ Khưu Ni. 

Cả hai hàng đệ tử, xuất gia và tại gia, đều có thể giữ Bồ tát giới, nếu tự nguyện thực hành hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Ngã, Vị Tha, xả thân để cứu chúng sinh. 

Hàng xuất gia từ giã thân quyến và thế tục, cắt tóc vào chùa, sống đời sống độc thân, có nhiệm vụ tu học, hoằng dương Chánh Pháp, lãnh đạo tinh thần. 

Hàng tại gia có gia đình và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, có nhiệm vụ hộ pháp, cung cấp các nhu cầu, vật thực cho hàng xuất gia. 

Mỗi bên đều có địa vị, nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt, không dẫm chân lên nhau mà trái lại phải tương kính và ủng hộ lẫn nhau. Đức Phật thường ví hai hàng đệ tử xuất gia và tại gia như hai cánh của con chim, có đủ cả hai thì mới hoạt động đắc lực được. Ngài nhấn mạnh tinh thần bình đẳng của hai hàng đệ tử, không phải chỉ có hàng xuất gia mới tiến tu và chứng ngộ, mà hàng tại gia cũng có những người đắc đạo như cư sĩ Duy Ma Cật, được tất cả các hàng Bồ tát, Thanh văn đều kính trọng ngợi khen. 

Dĩ nhiên hàng xuất gia dễ tu, dễ chứng hơn hàng tại gia vì có đủ điều kiện thuận tiện tu hành, còn hàng tại gia thì còn nhiều chuyện ở đời phải lo như tìm kế sinh nhai, dậy dỗ con cái, bổn phận công dân, thời gian dành cho việc tu hành không bao nhiêu thật khó tu hơn hàng xuất gia nhiều lắm. Do đó đã có câu: “Khó nhất là tu tại gia, khó nhì tu chợ, khó ba tu chùa.” 

Bổn phận của cư sĩ sống trong gia đình 

Kinh Thiện Sanh hay còn gọi là Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt [13][1](Singalovada Suttanta), đã nói lên sự quan tâm sâu sắc của đức Phật đối với cách hành xử của người cư sĩ tu tại gia,trong những mối dây liên hệ với gia đình và thân bằng quyến thuộc, như sau: 

Có một chàng thanh niên tên Sigala, vâng theo lời dặn dò của người cha trước khi qua đời, hằng ngày thường quay mặt về sáu Phương là Ðông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới, để lễ lạy. Ðức Phật bảo anh ta rằng theo Phật pháp, sáu Phương có nghĩa khác.

Phật pháp dạy rằng Phương Ðông là cha mẹ, Phương Nam là thầy dạy, Phương Tây là vợ con, Phương Bắc là bạn bè, quyến thuộc, láng giềng, Phương Dưới là người làm công và thợ thuyền, Phương Trên là tu sĩ và đạo sư. Ngài dạy Sigala phải tôn kính sáu Phương này. Ở đây chữ tôn kính có ý nghĩa rất đặc biệt, vì người ta chỉ tôn kính cái gì thiêng liêng, cao quý, đáng kính. Ðạo Phật coi sáu nhóm người này như là những điều thiêng liêng, xứng đáng được tôn kính. 

Nhưng làm thế nào để tỏ lòng tôn kính? 

Ðức Phật dạy rằng chỉ có thể tỏ lòng tôn kính chân thành bằng cách làm tròn bổn phận đối với họ. Những bổn phận này được đức Phật giảng giải rõ ràng cho Sigala như sau: 

Thứ nhất: cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Cha mẹ là Trời. Theo tư tưởng Ấn Độ, từ ngữ “Trời” để biểu tượng sự cao quý và thiêng liêng nhất. Cho nên ngay tại thời đại này, trong những gia đình theo đạo Phật thuần thành, sáng chiều hằng ngày, con cái vẫn có những hành động để tỏ lòng tôn kính cha mẹ. Họ phải làm một số bổn phận đối với cha mẹ theo giáo lý nhà Phật: Săn sóc khi cha mẹ già yếu, làm những điều cần thiết để giúp đỡ cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và khi cha mẹ qua đời thì cử hành các nghi thức trong tang lễ của cha mẹ. 

Về phần cha mẹ, họ cũng có những bổn phận đối với con cái, phải giữ gìn, dạy bảo cho con cái tránh xa những đường tà, khuyến khích con cái làm những việc tốt lành và ích lợi, cho con cái được hưởng một nền giáo dục chu đáo, tìm những gia đình lương thiện cho con cái kết hôn và khi con cái đã trưởng thành thì chia gia tài cho họ. 

Thứ hai:liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng và vâng lời thầy, phải chú ý đến những sự cần thiết của thầy, nếu thầy cần, phải chăm lo học hành. Về phía thầy, phải tận tâm dạy bảo học trò một cách chu đáo, giới thiệu bạn tốt cho trò và khi trò tốt nghiệp thì cố gắng tìm việc làm để bảo đảm kế sinh nhai cho trò. 

Thứ ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa vợ chồng được coi gần như một nếp sống đạo, có tính cách thiêng liêng. Giữa vợ và chồng phải có sự tin cậy, kính trọng, hy sinh, và có những bổn phận đối với nhau. Chồng phải luôn luôn tôn trọng vợ, không được thiếu sự kính nể đối với vợ, phải thương yêu và chung thủy đối với vợ, phải bảo đảm vị trí và tiện nghi của vợ, và nên làm vui lòng vợ bằng cách tặng nàng y phục và nữ trang. (Sự kiện đức Phật không quên đề cập đến việc tặng quà cho vợ khiến chúng ta thấy được sự mẫn cảm và tế nhị đầy nhân bản của Ngài đối với niềm cảm xúc của những con người bình thường). Về phía người vợ, phải tề gia nội trợ chu đáo, làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân nhân và người làm công. Vợ phải yêu thương và chung thủy với chồng, phải biết giữ gìn gia sản, phải khôn khéo và hoạt bát trong công việc. 

Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, hàng xóm láng giềng: Mọi người phải niềm nở và tử tế đối với nhau, nói năng vui vẻ, hòa nhã, phải làm việc có lợi ích cho nhau và đối xử bình đẳng với nhau, không cãi cọ mà giúp đỡ lẫn nhau khi cần và đừng bỏ rơi khi người ta gặp hoàn cảnh khó khăn. 

Thứ năm: liên hệ giữa chủ và người làm công: người chủ có nhiều bổn phận đối với người giúp việc hoặc người làm công, phải lượng sức của người ta để mà giao việc phù hợp, tiền lương phải tương xứng, phải cung cấp thuốc men và thỉnh thoảng tặng thưởng cho người ta. Về phía người làm công thì phải chăm chỉ làm lụng, không lười biếng, phải lương thiện và vâng lời chủ, không ăn gian nói dối và phải tận tụy trong công việc 

Thứ sáu: liên hệ giữa tu sĩ và cư sĩ: với niềm kính quý, người cư sĩ phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất của tu sĩ, người tu sĩ phải truyền bá sự hiểu biết cho cư sĩ với tấm lòng từ bi, lân mẫn và hướng dẫn họ đi trên chánh đạo, không lạc vào tà đạo. 

Như vậy, chúng ta đã thấy rõ rằng dù là một người dân bình thường sống trong gia đình, tham dự những sinh hoạt ngoài xã hội, họ vẫn được thụ hưởng sự giáo hóa của đức Thế Tôn, vẫn có thể tu tập, tạo sự an lạc trong nếp sống của một người Phật tử.

Trách Vụ Hoằng Pháp của Cư sĩ

Cư sĩ là thành phần đông đảo trong hai hàng đệ tử của đức Phật. Do đó, ngoài bổn phận trong gia đình, ngoài xã hội và hộ trì Phật pháp người Cư sĩ còn có bổn phận phải nỗ lực tu tập, thực hành để góp phần truyền bá giáo pháp, tức là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh sáng giải thoát cho đời. Như vậy, trách vụ của người Cư sĩ là vô cùng quan trọng trong việc phát triển Phật giáo trong ý nghĩa độ tha cũng như chuẩn bị hoàn cảnh tốt đẹp cho việc tự độ của mình. Trong lịch sử có nhiều vị vua Phật tử có công lao lớn trong việc hoằng dương chánh pháp mà điển hình là vua Asoka ở Ấn Ðộ, vua Trần Nhân Tông của Việt Nam và Lương Võ Đế của Trung Hoa.

Trong trách vụ góp phần truyền bá giáo pháp, người Cư sĩ Phật giáo cần làm và phải làm là luôn giữ giới luật vì giới luật nhà Phật nhằm tự ngăn ngừa các động lực tham dục tác hại, giúp phát triển tâm từ bi nhằm bảo vệ hạnh phúc an lạc cho mình và cho người khác, cũng như cho cộng đồng xã hội. Một Phật tử tại gia luôn luôn gìn giữ năm giới, không làm các điều ác, làm các việc lành, giàu lòng cảm thông, vị tha, khiêm tốn và thường hay giúp đỡ người khác, là một người có tư cách, một người có phẩm hạnh đạo đức cao, là cách truyền giáo lý tưởng nhất của hàng Cư sĩ cho những người xung quanh. Những người xung quanh thường không rõ đạo Phật, họ không có thì giờ tìm hiểu đạo Phật, nên thường có khuynh hướng đánh giá Phật giáo qua cung cách cư xử của những người có đạo mà họ tiếp xúc hàng ngày. Trong lời kết luận về vai trò hộ pháp của người Cư sĩ Phật giáo, Hoà thượng Thích Thanh Từ nhận định rằng: “Giờ rãnh rỗi, Phật tử nói chuyện thân mật trong gia đình, hoặc đi thăm người láng giềng đau yếu... đều là những buổi thuyết pháp linh động của cư sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý, ấy là bài thuyết pháp sống của Phật tử tại gia. Phật tử tại gia thực hiện được nhiệm vụ mình, mới thật là người hộ đạo chân chính”.

Trong hàng ngũ Phật tử tại gia còn có hàng Cư sĩ thọ Bồ Tát Giới, dành cho bất cứ ai nếu muốn phát tâm Bồ đề: trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sinh. Đây là lực lượng Phật tử tại gia quan trọng, vừa tiếp tay hỗ trợ quý Tăng Ni trong việc hoằng pháp, vừa là cây cầu nối giữa quý thầy với khối đông đảo quần chúng Phật tử. Hiện nay có nhiều địa phương không có chùa, không có Thầy nên chủ yếu việc hoằng pháp những nơi này là do giới này thực hiện. Hiện tại ở Việt Nam số lượng Phật tử tại gia thọ Bồ Tát Giới không được đông đảo, mỗi kỳ Đại Giới Đàn tổ chức ở Việt Nam số lượng cầu thọ Bồ Tát Giới không quá con số 100 vị; cho nên các Cư sĩ đã thọ Tam quy Ngũ giới có tâm ao ước muốn đem đạo Phật đến với mọi nhà mọi nơi, có tâm ước muốn góp bàn tay xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh, cần được khuyến khích gia nhập vào hàng ngũ này. 



[1]HT. Thích Minh Châu, Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt (Singalovada Suttanta), Trường Bộ Kinh


---o0o---


---o0o---

Trình bày: Vĩnh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/08/2011(Xem: 3291)
Đức Phật là người chinh phục vĩ đại nhất. Ngài chinh phục thế giới bằng vũ khí của tình thương và chân lý
11/08/2011(Xem: 5452)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
05/08/2011(Xem: 6800)
Mặt trời đang chiếu sáng trên chùa Tsuglakhang, trên đồi núi của Hy mã lạp sơn Ấn Độ, hàng trăm người Tây Tạng đang tập trung trong sân cho buổi lễ hội. Khi những thầy tu xới cơm trắng và rau cải hầm ra, những tiếng kèn và chập chỏa vang lên. Những lễ lược như vậy là thông thường ở đây - tu sĩ thường cung cấp thức ăn cho những dân làng địa phương như một hành động phục vụ để tích tập phước đức- nhưng không khí lễ hội dường như thu hút được tình cảm của vị hiền nhân sống bên cạnh ngôi chùa.
03/08/2011(Xem: 6295)
Thưa các vị Thanh thiếu niên: Mấy hôm trước một cơn mưa to ập đến, con đê vừa mới đắp để ngăn chặn dòng suối ở phía Tây đã sạt lỡ rất nguy hiểm, các vị pháp sư trong học viện đích thân dẫn đại chúng đến đó để sửa sang lại. Việc công quả trong Phật giáo cũng là một pháp tu, cũng là một thời khóa, tham gia công việc khiến cho chúng ta có thể hiểu rõ sự thánh thiện của việc làm, sự vĩ đại của việc phục vụ, từ công việc chúng ta có thể nhận thức được mình là người hữu dụng.
01/08/2011(Xem: 3401)
Khi chúng ta nhìn vào những kinh luận truyền thống của Đạo Phật dường như có rất ít liên hệ trực tiếp với những gì ngày nay gọi là khái niệm môi trường hay sinh thái học. Khi chúng ta thể nhập một cách thông minh vào thế giới mà Đức Phật đã sống và hành đạo, lý do của điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn. Khung cảnh nổi bật lên là một nền văn hóa sống trong sự hòa hiệp vô cùng sâu xa với môi trường, nếu đôi khi phải nói là trong sự thông cảm của lối sống Phật Giáo, và một cuộc “Vận Động Môi Trường” đơn giản là không cần đến.
27/07/2011(Xem: 6345)
Dallas, Texas, USA,10 tháng Năm, 2011 - Đức Thánh Thiện đã bắt đầu vào hôm nay với cuộc gặp gở với cựu Điều hợp viên Đặc biệt của Hoa Kỳ cho những vấn đề của Tây Tạng, bà Paula Dobriansky. Sau đấy, ngài đã đi đến tư gia của Nguyên Tổng thống George W. Bush và phu nhân để gặp gở họ. Đức Thánh Thiện đã ở đấy khoảng một giờ đồng hồ. Tổng thống Bush đã nói rằng ông vinh hạnh được đón tiếp Đức Thánh Thiện.
20/07/2011(Xem: 5773)
Từ khi ngài tuyên bố từ bỏ trách nhiệm của một vị nguyên thủ chính quyền lưu vong Tây Tạng, đời sống của ngài đã thay đổi thế nào? Không có thay đổi gì nhiều, bởi vì trong thập niên vừa qua, từ năm 2001, chúng tôi đã có đội ngũ lĩnh đạo qua bầu cử. Tôi sẽ diễn tả vị trí của tôi là giống như vậy từ lúc ấy. Do vậy, những quyết định chính yếu là trong tay của những người dân cử.
19/07/2011(Xem: 4676)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
19/07/2011(Xem: 5929)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
18/07/2011(Xem: 6110)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567