Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nhà sư Nhật Bản phục hồi ý nghĩa của chữ Vạn

12/02/201921:32(Xem: 7586)
Một nhà sư Nhật Bản phục hồi ý nghĩa của chữ Vạn

 

Một nhà sư Nhật Bản phục hồi ý nghĩa của chữ Vạn

 (Un bonze japonais souhaite réhabiliter la signification originale de la swastika)

                                                                                   Hoang Phong chuyển ngữ

 

            Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!

 

chuvan1_hoangphong

 

H.1: Chữ Vạn trên ngực một pho tượng Phật 

 

            Khi nhà sư Kenjitsu Nakagaki rời Osaka và định cư tại thành phố Seattle trên đất Mỹ năm 1985 thì khi đó ông cũng chỉ hiểu ý nghĩa của chữ Vạn qua từ manji trong tiếng Nhật - gốc tiếng Hán mang ý nghĩa là "sự giàu có". Một hôm trong khi cử hành một nghi lễ Phật giáo, ông có nói đến biểu tượng chữ Vạn, thì tức khắc có một người trong chùa cảnh giác rằng ông "không được làm như thế trong xứ sở này". Từ đó nhà sư Nakagaki đã hiểu được là chữ Vạn lại còn có thêm một ý nghĩa khác nữa, đó là sự hận thù.  

 

            Gần đây hơn, ông tuyên bố thẳng với giới truyền thông qua tờ Japan Times của thành phố New York như sau: "Sau khi học được bài học trên đây, tôi không dám nói đến biểu tượng này nữa - và đến nay thì cũng đã 25 năm rồi". "Thế nhưng tầm nhìn đó quả là hẹp hòi và thiển cận, không thể nào chấp nhận được, nhất là đối với những người trong số chúng ta từng lớn lên với chữ Vạn qua tín ngưỡng của mình và nền văn hóa của quê hương mình". Thật vậy biểu tượng này rất phổ biến tại Phương Đông, nơi mà Phật giáo Ấn Độ đã được truyền bá, và hơn nữa chữ Vạn cũng là một thuật ngữ tiếng Phạn, mang ý nghĩa là "được mọi điều tốt đẹp" (tiền ngữ su có nghĩa là "tốt đẹp", hậu ngữ asti có nghĩa là "được"/être, to be)

 

            Hiện nay nhà sư Nakagaki đang cố gắng kêu gọi quần chúng hãy quan tâm nhiều hơn đến từ này trong nền văn hóa Ấn Độ với ý nghĩa nguyên thủy của nó là Hòa Hình. Quyển sách mới đây nhất của ông với tựa đề : "Chữ Vạn trong Phật giáo và Chữ-thập-ngoặc của Hitler - Hãy cứu vãn một biểu tượng Hòa Bình thoát khỏi sức mạnh của hận thù" (The Buddhist Swastika and Hitler's Cross: Rescuing a Symbol of Peace from the Forces of Hate) là một đóng góp của ông nhằm phục hồi một biểu tượng đã bị cấm kỵ sau một thời gian dài. Trong quyển sách này nhà sư Nakagaki giải thích thật chi tiết nguồn gốc Á Đông của chữ Vạn và nêu lên các trường hợp mà biểu tượng này đã được sử dụng trong nhiều tín ngưỡng như Ấn giáo, Phật giáo, đạo Ja-in, Do Thái giáo, Ki-tô giáo và cả Hồi giáo, và cũng đã từ lâu đời, trước khi biểu tượng này bị những người Quốc-xã tước đoạt (biểu tượng "chữ thập có bốn cánh gập lại" mà  sau này người ta gọi là "swastika", là một trong số các biểu tượng xưa nhất của nhân loại. Người ta tìm thấy loại chữ thập này từ Thời đại đồ đá mới/Neolithic, tức là vào thời kỳ khi con người mới bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt. Vì thế cũng có thể xem chữ Vạn là một biểu tượng "toàn cầu". Sở dĩ biểu tượng này đã xuất hiện rất sớm và phổ biến rộng rãi trong nền văn minh nhân loại có thể là do tính cách đơn giản và dễ ghi khắc của nó. Di tích lâu đời nhất của biểu tượng này được tìm thấy tại xứ Ukraine , xưa khoảng 10.000 năm - ghi chú của người chuyển ngữ tiếng Việt).

 

            Chữ Vạn được biểu trưng bằng nhiều cách: một số có thêm bốn dấu chấm, một số khác dưới dạng một cơn lốc xoáy tròn, hoặc các biến thể khác. Đối với Phật giáo chữ Vạn nằm thẳng, bốn cánh quay về phía trái, trong khi Chữ-thập-ngoặc của Đức-quốc-xã thì nằm nghiêng 45° và bốn cánh thì quay về phía phải. Biểu tượng chữ Vạn rất phổ biến tại Nhật, và thường được dùng để chỉ định vị trí chùa chiền trên các bản đồ địa lý từ triều đại Meiji (1868-1912).

            Trong những năm gần đây đã từng có nhiều cuộc tranh luận về chữ Vạn, nhất là từ khi công ty Google "vô tình" đã dùng dấu hiệu chữ Vạn này chỉ định vị trí các chùa chiền Phật giáo trên những bản đồ do công ty phác họa! Thế nhưng chính công ty Google sau đó cũng đã phải tuyên bố với tổ hợp báo chí HuffPost rằng biểu tượng này dù đúng là "của tín ngưỡng Phật giáo", thế nhưng công ty cũng sẽ tìm cách … giải quyết khó khăn này! Năm 2015, một sinh viên Do Thái bị đuổi khỏi đại học George Washington sau khi cài lên bảng thông cáo của trường biểu tượng chữ Vạn mà anh ta đã mua tại Ấn Độ. Năm 2017, công ty may mặc Âu-châu DA Designs cho in biểu tượng chữ Vạn trên các chiếc áo thun (tee shirt) với chủ đích "quảng bá" ý nghĩa hoà bình và tình thương yêu của biểu tượng này. Thế nhưng sáng kiến này đã bị Quốc hội Do Thái và Bảo tàng viện tưởng niệm nhà giam Auschwitz (lò thiêu người của Đức-quốc-xã) chỉ trích nặng nề.

 

            Quyển sách của nhà sư Nakagaki trên đây cho thấy một sự cố gắng liên tục của ông trong việc làm sáng tỏ ý nghĩa của chữ Vạn, sau khi ông đệ trình luận án về vấn đề này tại Chủng viện Thần học New York năm 2012. Luận án này sau đó đã được xuất bản tại Nhật năm 2013. Thế nhưng các nhà xuất bản Mỹ thì lại quá dè dặt không dám in. Nhà sư Nakagaki bèn tự mình xuất bản qua công ty Amazon năm 2017. Mãi đến mùa thu vừa qua nhà xuất bản Stone Bridge Press mới xuất bản quyển sách này tại Mỹ. 

 chuvan2_hoangphong

       H.2        

chuvan3_hoangphong H.3

 

H.2: Hình bìa quyển sách "Chữ Vạn trong Phật giáo và Chữ-thập-ngoặc của Hitler - Hãy cứu vãn một biểu tượng Hòa Bình thoát khỏi sức mạnh của hận thù" của nhà sư Kenjitsu Nakagaki.

 

H.3. Nhà sư Kenjitsu Nakagaki đang giới thiệu quyển sách "Chữ Vạn trong Phật giáo và Chữ-thập-ngoặc của Hitler - Hãy cứu vãn một biểu tượng Hòa Bình thoát khỏi sức mạnh của hận thù" (The Buddhist Swastika and Hitler's Cross: Rescuing a Symbol of Peace from the Forces of Hate) với vị giáo sĩ (rabbi) Do-thái giáo Alan Brill, chủ tịch ủy ban nghiên cứu Do-thái giáo và Ky-tô giáo tại đại học Seton Hall tại thành phố New Jersey, tháng 11 năm 2018.

 

Nguồn: Lion'Roar, bài viết của Haleigh Atwơd  (09.01.2019)

Có thể xem tin này trên trang mạng: Buddhistdoor, bài viết  của Raymond Lam (19.12.2018)

Có thể xem bản gốc tiếng Pháp trên trang mạng của Viện nghiên cứu Phật học của Pháp (Institut d'Études Bouddhiques/IEB) (16.01.2019) :

https://bouddhismes.net/index.php?option=com_content&view=article&id=182:un-bonze-japonais-souhaite-rehabiliter-la-signification-originale-de-la-swastika&catid=12&Itemid=128-

Hình ảnh:  Davidlohr Bueso ; japantimes.co.jp

                                  

                                                                                                 Bures-Sur-Yvette, 14.02 19

                                                                                                      Hoang Phong chuyển ngữ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2021(Xem: 3948)
Tôi bắt đầu vào Đại học để học Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, trên đường theo học các lớp giáo lý sau này. Tại Đại học Ohio Hoa Kỳ, tôi tham gia lớp học về các tôn giáo thế giới từ tác giả, triết gia nổi tiếng, giáo sư triết học thâm niên tại Đại học Bang Ohio, Giáo sư Troy Organ, một Cơ Đốc nhân thực hành, người tự hào về việc giảng dạy mỗi tôn giáo từ quan điểm của một người tín ngưỡng.
17/11/2021(Xem: 25277)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21194)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13373)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14906)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15053)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17726)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16725)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21059)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14575)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]