Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoằng pháp, đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời.

09/04/201317:32(Xem: 4811)
Hoằng pháp, đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời.


Hoằng Pháp Đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời

Thích Thiện Bảo
---o0o---

Truyền thông là là một trong những phương tiện biểu đạt tư tưởng thông tin đến cho mọi người, ngày nay nhân loại sử dụng nó như là một công cụ hửu hiệu nhất nhằm phục vụ trong tất cả các lảnh vực khác nhau trong đời sống. Có thể nói truyền thông ngày nay đả trở thành phương tiện ưu việt nhất, nó là phương tiện phục vụ đắclực cho con người trong việc chuyển tải thông tin đến cộng đồng xã hội. Ở Phật giáo Hoằng Pháp hay ngày nay gọi là truyền thông cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong sứmệnh truyền bá giáo lý của Đức Bổn Sư điều nầy được thể hiệntừ khi Đức Thế tôn chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Mrigada?ay là Sarnath) thuộc Vàranasi độ năm anh em Kiều Trần Như (Ajnàkaundinaya) . Sự kiện nầy được ghi trongKinh Chuyển Pháp Luân (Dharma-cakra pravartana: Pravartana: chuyển Dharma-cakra: bánh xe pháp). Ở đây Đức Phật đã trình bày hay bắt đầu quay bánh xe pháp; bánh xe pháp đã có sẳn rồi nhưng cần phải chuyển. Chúng ta có thể hiểu việc chuyển pháp luân như là một hành động nắm bánh xe xoay mạnh, khởi động để từ giây phút đó giáo Pháp của Đức Phật tạo thành một dòng chảy không ngừng từ thế hệ nầy sang thế hệ khác mà chúng ta thường gọi là ?Pháp luân thường chuyển? (bánh xe pháp luôn luôn chuyển động). Trong suốtqúa trình trên 2.500 năm từ khi Đức Phật thành đạo, Đạo Phật được lan tỏa khắp nơi trên thế giới như một sức sống mãnh liệt mà Đức đạo sư đã trao truyền lại. Khi Đức Phật đạt đến giác ngộ Ngài đã nhận rõ về sự vật hiện tượng xuất thế gian nhưng khi Ngài bắt đầu chuyển bánh xe Pháp thìĐức Phật bắt đầu phải dùng ý niệm và ngôntừđể chuẩn bị cho việc truyền đạt tư tưởng mà Ngài muốn nói. Điều này cho chúng ta một khái niệm,muốntruyền bá chánh Pháp của Phật việc trước tiên là ngôn ngữ và trình độ lý luận cần phải được trao dồi như một nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong giai đoạn hiện nay.

uMỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ HOẰNG PHÁP:

1) Hoằng pháp: ?nghĩa là mở rộng ra làm cho giáo Pháp của Phật được lan toả khắp nơi? hay nóicách khácđemgiáo lý của Đức Phật đến với mọi người muốn tìm hiểu và ứng dụng lời Phật dạy để có một đời sống an lạc giải thoát giác ngộ . Hoằng Pháp không có nghĩa là chỉ là những buổi thuyết pháp trên pháp toà mà nó phải được thể hiện trong mọi sinh hoạt của con người qua nhiều phương tiện khác nhau: ngôn ngữ diễn đạt qua văn hóa nghệ thuật, in ấn kinh điển ....Làm sao cho giáo lý Đức Phật đi vào đời sống của con người, biến thành chất liệu sống như con người cần không khí để thở có như thế mới thực sự là một nền giáo lý có ích thiết thực góp phần đưa con người thoát khỏi mọi khổ đau.

2) Hoằng Pháp vi gia vụ(Hoằng pháp là việc nhà) : Tiêu chí trên lại càng khẳng định nhiệm vụ vô cùng bức thiếtđối với Hoằng pháp, từ xưa các vị tổ sư đã thấy được vai trò hết sức là quan trọng của hoằng pháp.No ?hông phải chỉ thuần là một việc làm có tính ?thời vụ?nhất thời mà phải có một kế sách lâu dài và nó phải gắn liền với đời sống của người con Phật dù xuất gia hay tại gia.

Đối với công tác Hoằng pháp hiện nay lại càng cực kỳ quan trọng vì ở một giai đoạn nền KHKT phát triển, việc chuyển tải giáo lý vào đời sống đòi hỏi người làm công tác Hoằng pháp phải nghĩ tới một phương thức truyền đạt thích hợp với thời đại vì ?Phật Pháp là bất định pháp?, chấp chặc nhưng khuôn xáo củ là tự mình làm cho mình lạc hậu, một người khôn ngoan không bao giờ biểu hiện điều đó trong hoạt động của mình.Phật giáo lại không có một khuôn mẫu nhất định nào mà tùy theo hoàn cảnh,điều kiện của xã hội mà giáo lý của Đức Phật có thể áp dụng khác nhau mà chúng ta gọi là ?Tùy duyên,bất biến và bất biến tuỳ duyên ?. Đây có thể nói là một nguyên lý đặc thù làm cho Đạo Phật có thể đến bất cức quốc gia nào mà không bị sự phản kháng của dân tộc khi Đạo Phật đặt chân lên quốc gia đó.

Thế giới ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá nguyên lý trên lại càng tạo nên một sức mạnh trong việc truyền bá giáo lý đạo Phật đi vào cuộc đời.Nếu người Đông Phương xem đạo Phật như một tôn giáo thuần túy thì người Phương Tây xem đạo Phật như một nghệ thuật sống,một phương thức làm cho con người thăng bằng về tâm thức mà các nhà tâm lý học gọi là stress , nó giải quyết những bế tắc của đời sống dư thưà về vật chất nhưng hoàn toàn thiếu vắng về tinh thần. Đạo Phật đến như một phương thuốc làm cho con người chạy đua về vật chất dừng lại nhằm ổn định, cân bằng trong đời sống.

Tinh thần của Đạo Phật ?Chúng sanh đa bệnh Phật pháp đa phương?( Chúng sanh nhiều bệnh thì Phật pháp cũng có nhiều phương cách khác nhau để điều trị ); từđó chúng ta có thể thấy Hoằng pháp là một phương thức không theo lối mòn, giáo điều cố địnhvà Thiền sưQuảng Nghiêm bộc lộ trong bài thơ Hưu hướng Như Lai ?

... Nam Nhi tự hưũ xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

... Làm trai chí lớn tung trời thẩm

Sao dẫm chân theo chổ Phật thành.

( Hư Trúc dịch)

Đa phương thức Hoằng Pháplà cách thực hiện việc truyền bá giáo lý Đạo Phật không phải chỉ có Pháp toà trong giảng đường mà được thực hiện qua nhiều phương tiện khác nhau qua tinh thần nhị khế( khế lý và khế cơ). Làm sao truyền bá tinh thần giáo lý phù hợp với nền tảng cơ bản của Đạo Phật, không đi ngược lại với truyền thống mà Đức Phật đã dạy. Khi giảng cho mọi người chúng ta phải dùng ngôn ngữ diễn đạt và quán sát bối cảnh chung của đối tượngnơi ta đang giảng ,sau đó ta nghiệm xemgiáo lý nào phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.Không nên đem một mớ kiến thức Phật học rồi thao thao bất tuyệt, không cần biết hoàn cảnh địa phương đóngười ta có chấp nhận hay không.Thuyết pháp như vậy, gọi là biểu diễn ngôn ngữ và phô trương kiến thức thực sự không khế lý.

Nhưng Pháp thoại mà ta trình bày phải được mọi người tiếp nhận qua ánh mắt cảm nhận của mọi người nghe, người giảng Pháp là người phải quán sát căn cơ đối tượng nào cần nói điều gì để có thể họ tiếp nhận dễ dàng như vậy gọi là khế cơ. Truyền bá giáo lý đạo Phật luôn luôn mang hai nội dung khế lý và khế cơ,nếu thiếu một trong hai yếu tố trên thì buổi giảng đó xem nhưkhông thành tựu.Ví như một vị Bác sĩ khi cho thuốc cần phải xem mạch bệnh nhân trước để có sự cáigọi là định bệnh. Dùng một đoạn kinh ra đọc cho mọi người nghe không bỏ xót một câu ,một chử đó không phải là giáo lý sống?hoạt ngữ?(ngôn ngữ sống) trái lại 荊chúng ta gọi là ?Tư۠Ngữ? (ngôn ngữ chết), vì nơi đó không đem đến cho người nghe niềm hỷ lạc, đó không phải là giáo lý của Đức Phật..Cho nên không phải bất cứ kiến thức nào của mình cũng có thể nói,có thể trình bày bất cứ nơi nào và bất cứ ở đâu(?).

uNGƯỜI TRUYỀN ĐẠT GIÁO LÝ ĐI VÀO CUỘC ĐỜI

Chúng ta biết rằng Phật giáo không phải la một lýthuyết xuông hay một nền triết học như bao nền triết học trên thế giới mà Phật học là một nền giáo lý thực nghiệm được thể hiện trong đời sống tâm linh nhằm giải quyết nhưng bế tắc của tâm thức con người, giúp con người vượt lên trên mọi chấp trước để chấm dứtkhổ đau. Chính vì tinh thần đó cho nên Thái Hư Đại Sư chia giáo lý ra làm hai:giáo lý ảnh tượng và giáo lý bản chất.

1/Giáo lý ảnh tượng: Những kinh điển của Phật dạy có tính cách kinh viện hay nói cách khác nền giáo lý đó được ghi bằng văn tự,nói bằng những ngôn ngữ của từng quốc gia.Nó được xem như một số kiến thức Phật học của một học giả không phải hành giả, đó là những nhà nghiên cứu, biết nhưng không ứng dụng thực hành. Qua đây mà giáo lý Đạo Phật nêu lên 3 nguyên tắc gọi là Tam học(Văn học,tư học và tu học).

-Người đệ tử Phật trước tiên phải nghe,tìm hiểu giáo điển, xây dựng cho mình một kiến thức Phật học với những phương pháp tu tập khi tiếp nhận giáo điểnvới một tinh thần, cởi mở ,thao thức muốn tìm hiểu để biết rỏ con đường mà mình sẽ đi và hướng dẫn người khác theo mình, gọi là Văn học (văn huệ) Điều đó được xác định qua tinh thần ?đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin? .

- Sau khi nghe, nghiên cứu tìm hiểu, người học Phật phải có tư duy, quán sát những điều mình nghe, nghiên cứu tìm hiểu,dù điều đó được nghe qua lời dạy của Phật, các vị tổ sư hay các vị giảng sư nổi tiếng đương thời.Tất cả phải đượcsàn lọc của tư duy quán sát, nhằm thẩm xét giá trị đích thực trước khi ứng dụng vào đời sống. Ở mộ đọan kinh Đức Phật đã dạy: ?Đừng tin tưởng một điều gìvì văn phong.Đừng tin tưởng một điều gì vì vịn vào một tập quán lưu truyền.Đừng tin tưởng điều gìvì có được nhiều người nói đi nhắc lại.Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân.Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiếnb ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởngbất cứ một điều gì chỉ vịn vào chỉ có một uy tín của các Thầy dạy các người.Nhưng chỉ tin tưởng những gi mà chính các người đã từng trải,kinh nghiệm và nhận la đúng,có lợi cho mình và kẻ khác.Chỉ có cái đó mới là mục đíchtối hậuthăng hoa cho con người và cuộc đời.Các người hãy lấy đó làm chuẩn mực?(Anguttara Nikaya).

Điều nêu trên của Đức Phậtcho chúng ta những người học Phật phải biết động nảo tư duy,không bị niềm tin mù quáng, nghe theo một cách vô điều kiện. Đó không phải là tinh thần Phật học và nó hoàn toàn không phù hợp với truyền thống giáo lý của Đạo Phật. Có tư duy quán chiếu như vậy gọi là tư học (tư huệ).

- Suy tư, quán sátnhận thấy đúng phù hợp với chính bản thân ,điều tối quan trọng là ứng dụng vào đời sống để có một nguồn Pháp lạc ,gọi là tu học(tu huệ).

2/Giáo lý bản chất: Đây là giáo lý của sự sống, nghe là hạt giống gieo vào đất,suy nghĩ, quán chiếu làtìm nơi chốn để gieo hạt giống đó và rồi người gieo hạt giống phải biết vô phân tưới nước cho hạt giống nẩy mầm: ?Mưa xuân nhẹ hạt, đất tẩm ướt ,hạt đậu năm xưa hé miệng cười?.Nghe mà không thực tập ứng dụng tu,chỉ là nói xuông.Điều nầy các vị Tổ sư thường gọi là Hạnh giải tương ưng hay Vương Dưong Minh (Trung Hoa) gọi là TRI HÀNH HỢP NHẤT( biết và làm phải đi đôi). Phật giáo không chấp nhận nói xuông tranh cải,đàm luận vô ích,điều nầy trong một đoạn kinh Đức Phật đựơc một Bà La môn chất vấn đức Phật: giáo lý của Ngài có Ngã hay không có Ngã.Đức Phật ngồi im lặng không trả lời,một lúc sau vị Bà La Môn đó ra về,Ngài A Nam cảm thấy thắc mắc bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn tại sao Phật không trả lời. Đức Phật nói: A Nan Ông ấy đến đây hỏi ta nhằm mục đích tìm học thuyết chống đối hoặ? ủng hộ,chớ không phải tìm pháp môn tu học.Nều ta nối không có ngã ông sẽ bị kẹt,mà nói có ngã ông cũng bị kẹt.Không trả lời mà ta im lặng là ta đã giúp cho Ông không bị kẹt trong hý luận xuông.

Như vậy, người truyền đạt giáo lý đức Phật phải là một hành giả mà không phải là học giả,vì qua thân, khầu, ý của người hành giả tương hợp với nhau tạo sức thuyết phục cho người nghe.Nói nhưng không làm là một trong những nguyên nhân làm giảm đi tinh thần học Phật đối với mọi người khi tiếp cận với nền giáo lý Đạo Phật. Qua hình ảnh của Đức Phật đêm thành đạo sau khi ngồi thiền định suốt đêm , khi sao mai bắt đầu mọc buổi bình minh sắp lố dạng tinh sương lúc đó cũng cảm nhận được nơi Ngài sự giác ngộ hoàn toàn và lời đầu tiên Đức Phật thốt ra: ?Tất cả mọi người đều có tuệ giác,vậy mà đời nầy sang đời khác,kiếp nầy sang kiếp khác,con người lại phải trôi lăn trong biển trầm luân khổ ải?. Câu nói đó phải chăng phát xuất nới sâu thẳm của tâm thức hiện lên điều đó lại càng chứng tỏ giáo lý đạo Phật là nền giáo lý nội quan.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2014(Xem: 10006)
Oprah Winfrey là một phụ nữ 56 tuổi - một ngôi sao truyền hình Mỹ. Có thể nói Oprah Winfrey là một phụ nữ danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trên quần chúng ở Hoa Kỳ. Năm 2006, chính Oprah đã mang về cho Obama hơn một triệu lá phiếu, thắng Hilary Clinton, để được đảng Dân Chủ đề cử làm ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Oprah có quyền lực mạnh bằng hay hơn 100 nghị sĩ, dân biểu Mỹ.
27/11/2014(Xem: 7085)
Chư thân hữu quý mến, Ở đây, chúng ta đang ở vào cuối năm 2010 - một năm khi Đức Đạt Lai Lạt Ma ở đây với chúng ta, Úc Đại Lợi. Nơi nào mà năm tháng đã đi qua Trong bộ phim Mặt Trời Mọc và Lặn, vừa mới trình chiếu ở Úc Đại Lợi và được quay trong sự phối hợp với Bậc Hiền Nhân Từ Bi và Tuệ Trí của Chúng Ta, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về tính tương đối của mọi thứ...
27/11/2014(Xem: 12592)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
22/11/2014(Xem: 28854)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
19/11/2014(Xem: 11011)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13606)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 5532)
Trong khuôn khổ Tuần Văn hóa Phật giáo 2012 tại Nghệ An, GS. Cao Huy Thuần từ Cộng hóa Pháp về tham dự và đã có buổi thuyết trình về đề tại "Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở Phương Tây" tại nhà Văn hóa Lao Động tỉnh Nghệ An. Buổi thuyết trình đã thu hút hàng nghìn người tham dự, sau đây là toàn văn bài thuyết trình, BBT xin đăng tải để giới thiệu cùng quý độc giả:
15/11/2014(Xem: 20927)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
24/10/2014(Xem: 14568)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 34213)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]