Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy trao cho thời đại những gì họ cần

09/04/201317:09(Xem: 4221)
Hãy trao cho thời đại những gì họ cần

 Buddha_1

HÃY TRAO CHO THỜI ĐẠI NHỮNG GÌ MÀ HỌ CẦN

HT. Thích Trí Quảng

Vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người, đó là mục tiêu đức Phật xuất hiện trên cuộc đời. thể hiện mục tiêu ấy, Ngài vào đời độ sanh, trao cho người những gì họ cần. Vì vậy, Ngài được tôn danh là đấng Vô thựơng sĩ, tức người thành công nhất bậc nhất, không ai bằng được Ngài.

Thật vậy, sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, trên bước đường giáo hóa, đức Phật luôn quán sát xem người cần gì. Với trí tuệ của bậc Chánh Biến Tri, đến nơi nào, Ngài cũng thấy rõ yêu cầu nơi đó, gặp bất cứ ai, Ngài đều biết căn tánh hành nghiệp của họ, tức họ có khả năng gì, ham muốn gì. Và tùy người, tùy chỗ, tùy lúc mà Phật chỉ dạy những việc tương ứng, nhằm mục tiêu giúp người thăng hoa, giúp nơi đó an bình, phát triển. Tất cả việc làm của đức Phật trong 80 năm trụ thế đều vì người, mang lợi lạc cho người, Ngài không hề khởi tâm nghĩ đến lợi lộc cho bản thân. Đó chính là tinh thần vô ngã vị tha, một triết lý sống cao đẹp nhất mà đức Phật đã thể hiện trên cuộc đời này và truyền dạy cho những ai mang cùng chí nguyện hướng thượng ấy.

Với tư tưởng chỉ đạo theo đạo Phật dạy: vô ngã vị tha, tức sống vì người, đáp ứng yêu cầu của người, nên hàng đệ tử Phật trên bước đường truyền giáo đã không bị chống đối. Ở giai đoạn đầu, khi đến Trung Hoa, các nhà sư truyền đạo không gặp sức cản của đạo Nho đã có mặt từ trước. Và hàng tăng lữ đã giúp cho người dân Trung Hoa những điều họ cần, giải tỏa cho họ những bế tắc, từ đó họ tìm thấy ở đạo Phật một sự chỉ đạo thiết thực lợi ích, nên phát tâm quy y, trở thành đệ tử Phật. Điển hình như Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Sanh, Đạo Dung là những kiện tướng của Nho giáo, Lão giáo nhưng đều trở thành đệ tử Phật một cách vô điều kiện, đóng vai trò đắc lực quan trọng cho việc dịch thuật kinh điển với ngài Cưu Ma La Thạch.

Về sau vua Lương, vua Đường kính trọng đạo Phật vì đạo Phật đã trao cho họ những gì họ cần để ôn định tình thế rối ren lúc đó và xây dựng đất nước thịnh trị. Pháp Vân là vị Đại pháp sư ổn định cho triều nhà Lương bằng các đem những người có tâm thù nghịch, chống đối về chùa, xây dựng họ trở thành người hiền lương. Đạo Nho đành bó tay, không giải quyết được trước việc làm chống phá, thì nhà truyền giáo đạo Phật, bằng tinh thần vô ngã vị tha, hiểu rõ tâm tư, hoàn cảnh khiến người bất mãn. Từ đó từng gỡ bỏ rối ren cho họ, hướng dẫn họ thấy được những nhận thức sai lầm thấy được điều đáng làm, điều không nên làm. Hiểu được như vậy, họ tự thay đổi nhận định và hành động, trở thành người tốt. Được sự trợ giúp thành côn của các nhà sư trong việc trị nước an dân, nên vua Lương Võ đế mới hết lòng ngưỡng mộ đạo Phật, phát tâm xây dựng 72 ngôi chùa.

Hoặc bên cạnh vua Đường có ngài Huyền Trang là vị Pháp sư nổi tiếng, đã giúp vua thành công trong lãng vực thu phục được nhân tâm, giải tỏa những hận thù khi ông thống nhất đất nước.

Hoặc tại Ấn Độ, vua Asoka đã lập nhiều chiến công hiển hách, mở rộng vương quốc. Chín năm sau ngày đăng quang, năm 260 trước CN, vua Asoka chinh phục xứ Kalinga. Sau trận chiến đẫm máu này, ông ghê tởm chiến tranh, quyết tâm từ bỏ vũ lực và phát tâm sống với Phật pháp, lãnh đạo đất nước theo tinh thần Phật dạy, kiến tạo xứ Ấn thái bình thịnh trị

Vua Asoka đã trở thành Phật tử nhiệt tình, đóng góp cho sự phát triển Phật giáo khắp năm châu. Cuộc thảm sát ở Kalinga đã làm vua thức tĩnh, trở về với đạo PHật mà ảnh hưởng đã có sẵn từ trong gia tộc vua. Thật vậy, người vợ đầu tiên của ông, ở xứ Ujjan vốn là con gái dòng họ Thích (Sakya), bà đương kim hoàng hậu vốn gần gũi chư tăng và người em trai cùng mẹ, Vitagasoka là một tu sĩ PHật giáo nổi tiếng.

Riêng tại Việt Nam, chúng ta đều biết sử liệu ghi rõ lúc vua Trần Thái Tông mới 20 tuổi bị Trần thủ Độ ép buộc lấy người chị dâu đang có mang với người anh ruột là Trần Liễu. Vua Thái Tông phản đối kịch liệt, nhưng vì Trần Thủ Độ nắm giữ nhiều uy quyền, Thái Tông không có cách nào ngăn cản được.

Mang nặng tâm trạng khổ đau tuyệt vọng, không biết đối phó như thế nào, vua Thái Tông bỏ ngai vàng, trốn lên núi Yên Tử. Nơi đó, vua gặp được Phù Vân Quốc sư liền giải bày nổi niềm tâm sự. Hôm sau, Trần Thủ Độ dẫn các quan lên núi đón vua về kinh, nài nỉ nhiều lần, vua vẫn không nghe. Thủ Độ cũng cương quyết bảo mọi người: "Vua ở đâu thì lập triều đình ở đó"

Phú Vân cầm tay vua nhẹ nhàng nói: "Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, không về sao được. Tuy nhiên, sự nghiên cứu nội điển, xin bệ hạ đừng phút nào quên".

Những tham vọng, bức bách mà người đời không giải quyết được, những khuôn phép lễ - nghĩa - trí - tín của Nho giáo ràng buộc cũng không đưa ra được lối thoát cho vấn đề. Chỉ một câu nói đơn giản của Phù Vân quốc sư thể hiện trọn vẹn tinh thần vị tha vô ngã, đã cởi mở được nổi u sầu của vua, soi sáng cho vua thấy được việc tu hành của mình bằng con đường dẫn dắt muôn dân sống an lạc. Là Phất tử thấm nhuần sâu sắc chánh pháp, vua Trần Thái Tông trở thành đấng minh quân, trong suốt 32 năm điều hành chính sự nước nhà.

Ngày nay, văn minh Tây phương, được coi là đang chiếm lãnh ưu thế, đứng đầu văn minh vật chất, nhưng oái ăm thay, nền văn minh được ca tụng hạng nhất âý, cũng đang đứng bên bờ vực thẳm tiến thoái lưỡng nan. Nếu không tiến tới thì sẽ phá sản, mà đi tới nữa thì cỗ xe văn minh cũng bị đổ dốc thê thảm. Rõ ràng trước mắt mọi người đều thấy hiệu quả của sự nổ lực phát triển văn minh là tuổi thọ trái đất đang bị đe dọa trầm trọng, nảy sinh biết bao vấn đề không cứu vãn được cho môi trường sinh thái của con người và mọi loài, gây ra nhiều bệnh tật, nhiều tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến luân lý, đạo đức con người...

Đối trước những bức bách của thời đại, tu sĩ Phật giáo ngày nay, đã tiếp nối con đường khai thông của các bậc tiền bối và trao cho đời phương cách ứng xử thích hợp, lợi ích.

Thật vậy, trong thời hiện đại, vào khoan󧠮ửa thế kỷ trước, những nhà tu đắc đạo của Đông phương đã giới thiệu đạo Phật cho các nước văn minh Tây phương. Điển hình như các Thiền sư Nhật Bản, đứng đầu là Thìên sư Suzuki đã đem Thiền học truyền dạy cho người Tây phương. Ở mức độ thấp, Thiền giúp họ cải thiện sức khỏe điều hòa được tâm sinh lý ổn định, tạo được nếp sống quân bình. Và ở mức độ cao hơn, giới thiệu cho họ những nét thiện my4 của văn minh Đông phương qua biểu trưng đặc sắc của Thiền, tuy ngồi yên nhưng tạo sức mạnh vô hình, tác động cho người bỏ ác thành thiện. Lập cước trên tinh thần, các tổ chức Phật giáo gần như không có kỹ luật theo quan sát bề ngoài, nhưng thực sự tiềm ẩn một kỹ luật rất cao, đó chính là tinh thần tự giác của người đệ tử Phật, tạo nên sức mạnh nuôi sống đạo pháp trường tồn ở khắp mọi nơi.

Ngày nay, Nhật Bản là một trong những cường quốc, có sức mạnh của nền văn minh vật chất ngang bằng với các nước Tây phương, nhưng không bị rơi vào tình thế khủng hoảng do tiến bộ vật chất tạo ra như các nước Tây phương đang phải đối đầu. Sở dĩ người Nhật Bản vừa phát triển được cuộc sống tiện nghi theo vật chất Tây phương, vừa giữ vững được đời sống tinh tha26n tốt đẹp, là nhờ họ đã khéo léo kết hợp hài hòa sự tiến bộ của phát triển khoa học công nghiệp với tinh tuý của Thiền học. Cốt tủy của Thiền thể hiện qua chỉ Đạo, được họ gắn liền với những sinh hoạt trong cuộc sống, từ đó họ có võ sĩ đạo, kiếm đạo, nhu đạo, trà đạo, hoa đạo, thơ đạo..., tạo thành đời sống phát huy được vật chấtt và tinh thần vượt trội hơn người Tây phương. Từ một võ sĩ chuyên chém giết, gây rối loạn cho xã hội không ít, nhưng khi tiếp thu được chữ Đạo theo tư tưởng Thiền, họ trở thành võ sĩ đạo thì việc sát phạt không còn điên cuồng, thù hận, mà phải hành động bằng đầu óc minh mẫn, tâm hồn định tĩnh, ứng xử hợo tình hợp lý, không ức hiếp người, cũng không khiếp nhược

Mẫu người tiêu biểu thứ hai là gần đây, đức Đạt Lai Đạt Ma một nhà lãnh đạo tối cao của Phật giáo đã được thế giới quý trọng, đề cao như là người đứng đầu trong số những vĩ nhân của thời đại chúng ta. Là hành giả Mật Tông, Ngài truyền bá Phật pháp bằng chính cuộc sống đắc đạo tỏa ra cho người có cơ hội tiếp xúc cảm nhận sự bình an ,hạnh phúc và giúp họ thấy được những việc làm cần thiết có ý nghĩa trong hiện tại và muôn kiếp về sau.

Và không ít những bậc chân tu thạc đức khác, nếu chúng ta may mắn có duyên hạnh ngộ, thanh tịnh của họ sẽ tác động lòng ta vơi đi phiền não hoặc tâm trí ta sáng ra, giải quyết được nhiều vấn đề mà bình thường không thể có đáp án.

Tóm lại, với chiều dài lịch sử của đạo Phật tồn tại hơn 25 thế kỷ tỏa sáng qua các việc làm của tiền nhân thiết thực lợi ích mỹ mãn cho đời, đã nói lên kho tàng pháp bảo mà đức Phật để lại chẳng những cho Đông phương mà cho cả nhân loại, cho những ai muốn thăng hoa trên lộ trình tri thức, đạo đức và giải thoát.

Các bậc tiền bối đã làm tròn trọng trách xương minh đạo pháp. Tiếp tục sự nghiệp vàng son ấy là công việc của chúng ta. Những người đệ tử Phật khắp năm châu, hãy nổ lực trao cho thời đại những gì họ cần để đạo pháp ngời sáng mãi trong đêm dài sanh tử.


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11784)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12252)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15150)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11990)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16863)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12661)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7890)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20298)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11746)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9201)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567