Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11

09/10/201116:04(Xem: 7595)
11

KRISHNAMURTI
CUỘC ĐỜI TRƯỚC MẶT
Lời dịch: Ông Không

PHẦN MỘT

XI

B

ạn sẽ nhớ rằng chúng ta đang nói về sợ hãi. Lúc này, liệu sợ hãi chịu trách nhiệm cho sự tích lũy của hiểu biết? Đây là một chủ đề khó, vì vậy chúng ta hãy xem thử liệu chúng ta có thể thâm nhập vào nó, chúng ta hãy suy xét về nó thật tỉ mỉ.

Những con người tích lũy và tôn thờ hiểu biết, không chỉ hiểu biết khoa học nhưng còn cả hiểu biết tạm gọi là tinh thần. Họ nghĩ rằng hiểu biết rất quan trọng trong sống – hiểu biết về việc gì đã xảy ra, về việc gì sẽ xảy ra. Toàn qui trình này của tích lũy thông tin, của tôn thờ hiểu biết – liệu nó không nảy sinh từ nền tảng của sợ hãi? Chúng ta sợ hãi rằng nếu không có hiểu biết chúng ta sẽ bị hụt hẫng, chúng ta sẽ không biết làm thế nào để hướng dẫn chính chúng ta. Vì vậy, qua đọc điều gì những vị thánh nhân đã nói, qua những niềm tin và những trải nghiệm của những người khác, và cũng qua những trải nghiệm riêng của chúng ta, chúng ta dần dần dựng lên một nền tảng của hiểu biết mà trở thành truyền thống; và đằng sau truyền thống này chúng ta ẩn náu. Chúng ta nghĩ hiểu biết hay truyền thống là cốt lõi, và nếu không có nó chúng ta sẽ bị hụt hẫng, chúng ta sẽ không biết phải làm gì.

Bây giờ, khi chúng ta nói về hiểu biết, chúng ta có ý gì qua từ ngữ đó? Chúng ta biết gì về nó? Bạn thực sự biết gì, khi bạn phải suy nghĩ về hiểu biết mà bạn đã tích lũy? Tại một mức độ nào đó, trong khoa học, ngành kỹ sư, và vân vân, hiểu biết là quan trọng; nhưng ngoại trừ điều đó, chúng ta biết gì?

Bạn có khi nào suy nghĩ về toàn qui trình của sự tích lũy hiểu biết này? Tại sao bạn học hành, tại sao bạn vượt qua những kỳ thi? Hiểu biết là cần thiết tại mức độ nào đó, đúng chứ? Nếu không có hiểu biết về toán học và những chủ đề khác, người ta không thể là một kỹ sư hay một người khoa học. Sự liên hệ xã hội được thiết lập dựa trên hiểu biết như thế, và chúng ta sẽ không thể kiếm sống nếu chúng ta không có nó. Nhưng ngoại trừ loại hiểu biết đó, chúng ta biết gì? Ngoại trừ điều đó, bản chất của hiểu biết là gì?

Bạn có ý gì khi bạn nói rằng hiểu biết là cần thiết để tìm được Thượng đế, hay rằng hiểu biết là cần thiết để hiểu rõ về chính mình, hay rằng hiểu biết là cần thiết để tìm ra một phương cách thoát khỏi những lao dịch của sống? Ở đây, chúng ta có ý hiểu biết như trải nghiệm; và trải nghiệm này là gì? Chúng ta biết gì qua hiểu biết? Hiểu biết này không bị lợi dụng bởi cái ngã, ‘cái tôi’, để củng cố chính nó, hay sao?

Ví dụ, tôi đã đạt được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Trải nghiệm này, cùng những cảm thấy của thành công, của thanh danh, của quyền hành, trao tặng tôi một ý thức nào đó của bảo đảm, của thanh thản. Vì vậy, hiểu biết của sự thành công của tôi, hiểu biết rằng tôi là người nào đó, rằng tôi có địa vị, quyền hành, củng cố ‘cái tôi’, cái ngã, đúng chứ?

Liệu bạn không nhận thấy những học giả đã phô trương hiểu biết như thế nào, hay hiểu biết trao tặng người cha của bạn, người mẹ của bạn, giáo viên của bạn như thế nào thái độ của ‘Tôi đã trải nghiệm nhiều hơn bạn; tôi biết và bạn không biết’, hay sao? Vì vậy, hiểu biết mà chỉ là thông tin, dần dần trở thành chất nuôi dưỡng của sự tự phụ, thực phẩm của cái ngã, ‘cái tôi’. Bởi vì cái ngã không thể tồn tại nếu không có hiểu biết này hay hình thức nào đó của sự phụ thuộc ăn bám.

Người khoa học lợi dụng hiểu biết của anh ấy để nuôi ăn sự tự phụ của anh ấy, để cảm thấy rằng anh ấy là người nào đó, giống như những học giả. Những giáo viên, những cha mẹ, những đạo sư – tất cả họ đều muốn là người nào đó trong thế giới này, thế là họ lợi dụng hiểu biết như một phương tiện dẫn đến mục đích đó, để thành tựu ham muốn đó; và khi bạn thâm nhập đằng sau những từ ngữ của họ, họ thực sự biết cái gì? Họ chỉ biết những quyển sách chứa đựng điều gì, hay họ đã trải nghiệm điều gì; và những trải nghiệm của họ phụ thuộc vào nền tảng của tình trạng bị quy định của họ. Giống như họ, hầu hết chúng ta đều nhét đầy những từ ngữ, những thông tin mà chúng ta gọi là hiểu biết, và nếu không có nó chúng ta bị hụt hẫng; vì vậy, luôn luôn có sợ hãi rình rập đằng sau bức màn này của những từ ngữ, của những thông tin.

Nơi nào có sợ hãi không có tình yêu; và hiểu biết mà không có tình yêu hủy diệt chúng ta. Đó là điều gì đang xảy ra trong thế giới tại thời điểm hiện nay. Ví dụ, lúc này chúng ta có dư thừa hiểu biết để nuôi ăn những con người khắp thế giới; chúng ta biết làm thế nào để cung cấp lương thực, quần áo và chỗ ở cho nhân loại, nhưng chúng ta không đang thực hiện nó bởi vì chúng ta bị phân chia thành những nhóm thuộc quốc gia, mỗi nhóm với những theo đuổi ích kỷ riêng của nó. Nếu chúng ta thực sự có mong ước để kết thúc chiến tranh, chúng ta có thể làm điều đó; nhưng chúng ta không có mong ước đó, và cũng vì cùng lý luận. Vì vậy, hiểu biết mà không có tình yêu trở thành một phương tiện của sự hủy diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ điều này, chỉ vượt qua những kỳ thi và kiếm được những vị trí của thanh danh và quyền hành chắc chắn sẽ dẫn đến sự thoái hóa, đến sự suy sụp, đến sự tàn tạ từ từ của phẩm giá con người.

Chắc chắn, hiểu biết tại những mức độ nào đó là điều cần thiết, nhưng thậm chí còn quan trọng hơn nhiều khi thấy hiểu biết đã bị lợi dụng cho cái tôi như thế nào, cho những mục đích ích kỷ như thế nào. Hãy quan sát về chính bạn và thấy sự trải nghiệm bị lợi dụng bởi cái trí như một phương tiện của tự-bành trướng như thế nào, như một phương tiện của quyền hành và thanh danh như thế nào. Hãy quan sát những người lớn tuổi và bạn sẽ thấy họ ham muốn địa vị và bám vào thành công của họ như thế nào. Họ muốn xây dựng một cái tổ ấm của sự an toàn cho chính họ, họ muốn quyền hành, thanh danh, uy quyền – và hầu hết chúng ta, trong những cách khác nhau, đều theo đuổi cùng sự việc. Chúng ta không muốn là chính chúng ta, dù chúng ta là gì; chúng ta muốn là những người nào đó. Chắc chắn, có một khác biệt giữa đang là và đang mong muốn để là. Sự ham muốn để là hay để trở thành được tiếp tục và được củng cố qua hiểu biết, mà được sử dụng cho tự-bành trướng.

Rất quan trọng cho tất cả chúng ta, khi chúng ta đang chín chắn, thâm nhập vào những vấn đề này và hiểu rõ chúng, để cho chúng ta không kính trọng một con người chỉ bởi vì anh ấy có một tước hiệu hay một địa vị cao, hay được nghĩ là có nhiều hiểu biết. Thật ra, chúng ta chẳng biết bao nhiêu. Chúng ta có lẽ đã đọc nhiều quyển sách, nhưng chẳng mấy người có lẽ có trải nghiệm trực tiếp về bất kỳ thứ gì. Chính là trải nghiệm trực tiếp của sự thật, của Thượng đế, mới có sự quan trọng cốt lõi; và để có được điều đó, phải có tình yêu.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2013(Xem: 5980)
Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài trả lời phỏng vấn của Paul F. Knitter, Giáo sư thần học về các Tôn giáo Thế giới và Văn hóa tại Chủng viện Union ở Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách “Không Học Phật, Tôi Đã Không Thể Là Một Con Chiên- Without Buddha I Could Not Be A Christian”.
21/01/2013(Xem: 5893)
Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.
21/01/2013(Xem: 5699)
Tiến sĩ Thupten Jinpa chuyển vai trò thông dịch sang thuyết trình. Ông bắt đầu với lý thuyết Phật giáo thời kỳ sơ khởi về nguyên tử và đề cập đến các xu hướng giản hóa luận trong thời kỳ này. Ông cũng chỉ ra rằng không có bất kỳ quan điểm giản hóa luận nào của các nhà tư tưởng Phật giáo đã quy giản tâm thức về vật chất thuần túy. Nhà hiền triết Aryadeva, đệ tử của đạo sư Long Thọ, đã viết các tranh biện với các luận thuyết thời kỳ sơ khởi là ở trong khía cạnh các quan điểm về tính rời rạc và về lý nhân quả. Trong khuôn khổ của Hai Chân lý thì tất cả các trường phái tư tưởng Phật giáo đều đồng quan điểm về chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng nếu Cơ học Lượng tử được luận giải trong bối cảnh này, thì sẽ dễ dàng nắm bắt hơn.
28/12/2012(Xem: 10166)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
17/12/2012(Xem: 4048)
Nhu cầu cần thiết để tổ chức khóa tu dưỡng giảng sư là để tạo điều kiện cho Tăng Ni và trụ trì các Tự Viện có đủ năng lực phục vụ Đạo Pháp, mở ra và định hướng cho thế hệ trẻ tương lai, đem Đạo Phật vào tận các nơi xa không có hình bóng chư tăng hoằng pháp.
10/10/2012(Xem: 9009)
Tôi muốn nói về sự thích hợp của tôn giáo trong thế giới hiện đại. Vì bản tánh tự nhiên, tất cả mọi người đều có sự cảm nhận về tự ngã, và từ đó, họ sẽ trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác khổ đau, vui sướng hay trung tính... Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
03/10/2012(Xem: 3040)
Tôi muốn nói về sự thích hợp của tôn giáo trong thế giới hiện đại. Vì bản tánh tự nhiên, tất cả mọi người đều có sự cảm nhận về tự ngã, và từ đó, họ sẽ trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác khổ đau, vui sướng hay trung tính. Đây là sự thật, không cần phải tìm hiểu lý do. Động vật cũng thế. Vì bản tánh tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc, không muốn đau đớn và bất hạnh. Ta cũng không cần phải chứng minh điều này. Trên cơ bản này, ta có thể nói rằng mọi người đều có quyền lợi để có một đời sống hạnh phúc và khắc phục khổ đau.
25/08/2012(Xem: 9067)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
15/08/2012(Xem: 11696)
Cuốn sách này ghi lại những lời phỏng vấncủa Hội Phật Học Đuốc Tuệ với Thầy Thích Nhật Từ, nhân dịp Thầy hoằng pháp ởHoa Kỳ năm 2004. Người Phật tử hải ngoại hôm nay, tronghoàn cảnh “một chốn đôi quê” đang ấp ủ những nỗi niềm cần được giải đáp. Niềmriêng là đối với đạo pháp và dân tộc. Niềm chung là với Phật giáo và thế giới. Chúng ta đang đi vào thế kỷ XXI và cũnglà những năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3. Thời gian cứ trôi đi, trôi mãi chẳngchờ đợi ai! Cuộc đời cũng cứ chảy theo dòng sông không hề ngừng nghỉ. Vấn đề đặtra là, chúng ta đã làm được gì cho cuộc sống hôm nay và ngày mai? Nghĩ xa hơn nữathì đạo Phật đã chuyển hóa được những gì trên địa cầu này và đã đóng góp đượcnhững gì cho nhân loại hôm nay cùng tất cả chúng sinh mai sau?
02/08/2012(Xem: 16527)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]