Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02

09/10/201116:04(Xem: 6427)
02

KRISHNAMURTI
CUỘC ĐỜI TRƯỚC MẶT
Lời dịch: Ông Không

PHẦN MỘT

II

C

húng ta đã bàn luận vấn đề của sợ hãi. Chúng ta đã thấy rằng hầu hết chúng ta đều sợ hãi, và sợ hãi đó ngăn cản sáng tạo bởi vì nó khiến cho chúng ta bám vào con người và vào những sự việc như một dây leo bám vào một cái cây. Chúng ta bám vào cha mẹ của chúng ta, người chồng của chúng ta, con trai của chúng ta, con gái của chúng ta, người vợ của chúng ta, và những sở hữu của chúng ta. Đó là hình thức bên ngoài của sợ hãi. Bởi vì sợ hãi bên trong, chúng ta sợ hãi đứng một mình. Chúng ta có lẽ có nhiều quần áo, nữ trang hay những tài sản khác; nhưng phía bên trong, thuộc tâm lý, chúng ta rất nghèo khó. Phía bên trong chúng ta càng nghèo khó bao nhiêu, phía bên ngoài chúng ta càng muốn làm phong phú cho chúng ta nhiều bấy nhiêu bằng cách bám vào những người khác, địa vị, tài sản.

Khi chúng ta sợ hãi, chúng ta không những bám vào những sự vật phía bên ngoài, nhưng còn bám vào những sự việc phía bên trong như truyền thống. Đối với hầu hết những người già, và đối với những người mà nghèo khó và trống rỗng phía bên trong, truyền thống quan trọng vô cùng. Bạn có khi nào nhận thấy điều này nơi bạn bè, cha mẹ, và những giáo viên của bạn? Bạn có khi nào nhận thấy nó trong chính bạn? Khoảnh khắc có sợ hãi, sợ hãi phía bên trong, bạn cố gắng che đậy nó bằng sự kính trọng, bằng cách tuân theo một truyền thống; và thế là bạn không còn khả năng sáng tạo. Bởi vì bạn không có khả năng sáng tạo và chỉ đang tuân theo, truyền thống trở thành rất quan trọng – truyền thống của điều gì những người khác nói, truyền thống đã được chuyển sang từ quá khứ, truyền thống mà chết rồi, không có sự đam mê trong sống bởi vì nó đơn thuần chỉ là một lặp lại mà không có ý nghĩa gì cả.

Khi người ta sợ hãi, luôn luôn có một khuynh hướng phải bắt chước. Bạn nhận thấy điều đó? Những người sợ hãi bắt chước những người khác; họ bám vào truyền thống, cha mẹ của họ, người vợ của họ, người anh của họ, người chồng của họ. Và sự bắt chước hủy hoại khả năng sáng tạo. Bạn biết, khi bạn phác họa hay vẽ một cái cây, bạn không bắt chước cái cây, bạn không sao chép nó chính xác như nó là, mà sẽ chỉ là một bức ảnh. Muốn được tự do để vẽ một cái cây, hay một bông hoa, hay một hoàng hôn, bạn phải cảm thấy nó chuyển tải sang bạn cái gì, sự quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều này rất quan trọng – cố gắng chuyển tải ý nghĩa của cái gì bạn thấy và không chỉ sao chép nó, bởi vì thế là bạn bắt đầu thức dậy sự tiến hành sáng tạo. Nhưng hãy quan sát sống riêng của bạn và những sống quanh bạn, chúng bị bóp nghẹt bởi truyền thống, bởi bắt chước làm sao đâu!

Bạn phải bắt chước trong những hình thức nào đó; như trong quần áo bạn mặc, trong những quyển sách bạn đọc, trong ngôn ngữ bạn nói. Đây là tất cả những hình thức của bắt chước. Nhưng rất cần thiết phải vượt khỏi những mức độ này, và cảm thấy được tự do để hiểu rõ những sự việc cho chính bạn để cho bạn không chấp nhận một cách không suy nghĩ điều gì người nào đó nói, không đặt thành vấn đề người đó là ai – một giáo viên trong trường học, một người cha hay người mẹ, hay một trong những người thầy tôn giáo vĩ đại. Hiểu rõ những sự việc cho chính bạn, và không theo sau, là điều rất quan trọng; bởi vì theo sau thể hiện sự sợ hãi, đúng chứ? Khoảnh khắc người nào đó trao tặng cho bạn điều gì bạn ao ước – thiên đàng, hạnh phúc, hay một việc làm tốt – có sợ hãi của không được nó; thế là bạn bắt đầu chấp nhận, theo sau. Chừng nào bạn còn muốn cái gì đó, phải có sợ hãi; và sợ hãi làm què quặt cái trí đến độ bạn không thể được tự do.

Bạn có biết một cái trí tự do là gì? Bạn có khi nào đã quan sát cái trí riêng của bạn? Nó không được tự do, đúng chứ? Bạn luôn luôn đang theo dõi để thấy điều gì những người bạn bàn tán về bạn. Cái trí của bạn giống như một ngôi nhà được bao bọc bởi một hàng rào hay bởi dây kẽm gai. Trong trạng thái đó không gì mới mẻ có thể xảy ra. Một sự việc mới mẻ có thể xảy ra chỉ khi nào không có sợ hãi. Và cực kỳ khó khăn cho cái trí được tự do khỏi sợ hãi, bởi vì điều đó hàm ý được tự do thực sự khỏi sự ham muốn để bắt chước, theo sau, được tự do khỏi ham muốn có của cải chồng chất hay để tuân phục vào một truyền thống – mà không có nghĩa rằng bạn làm việc gì đó gây kinh hoàng.

Tự do của cái trí hiện diện khi không có sợ hãi, khi cái trí không có sự ham muốn để khoe khoang và không bị kích động vì địa vị hay thanh danh. Vậy thì nó không có ý thức của bắt chước. Và rất quan trọng phải có một cái trí như thế – một cái trí thực sự được tự do khỏi truyền thống, mà là hệ thống máy móc hình thành-thói quen của cái trí.

Liệu tất cả việc này quá khó khăn? Tôi không nghĩ nó khó khăn như môn toán hay địa lý của bạn. Nó dễ dàng lắm, chỉ bởi vì bạn chưa bao giờ suy nghĩ về nó. Có lẽ bạn trải qua mười hay mười lăm năm thuộc sống của bạn trong trường học để thâu lượm thông tin, tuy nhiên bạn không bao giờ dành ra thời gian – không một tuần lễ, thậm chí không một ngày – để suy nghĩ kỹ càng, trọn vẹn về bất kỳ một trong những điều này. Đó là lý do tại sao tất cả nó dường như quá khó khăn; nhưng thật ra không khó khăn gì cả. Ngược lại, nếu bạn dành thời gian cho nó bạn có thể tự thấy cho chính bạn cái trí làm việc như thế nào, nó vận hành, phản ứng như thế nào. Và bắt đầu hiểu rõ cái trí riêng của bạn trong khi bạn còn nhỏ là điều rất quan trọng, ngược lại bạn sẽ lớn lên và tuân theo những truyền thống nào đó mà chẳng quan trọng chút nào cả; bạn sẽ bắt chước, mà có nghĩa là tiếp tục vun quén sợ hãi, và thế là bạn sẽ không bao giờ được tự do.

Ở Ấn độ này bạn có nhận thấy rằng bạn bị trói buộc trong truyền thống biết chừng nào? Bạn phải kết hôn trong một cách nào đó, cha mẹ của bạn chọn lựa người chồng hay người vợ. Bạn phải thực hiện những nghi thức nào đó; chúng có lẽ không có ý nghĩa gì cả, nhưng bạn phải thực hiện chúng. Bạn có những người lãnh đạo mà bạn phải theo sau. Mọi thứ quanh bạn, nếu bạn đã quan sát nó, phản ảnh một cách sống trong đó uy quyền đã được thiết lập vững chắc. Có uy quyền của vị đạo sư, uy quyền của nhóm chính trị, uy quyền của cha mẹ, và uy quyền của quan điểm quần chúng. Nền văn minh càng cổ lỗ bao nhiêu, trọng lượng của truyền thống cùng hàng loạt những bắt chước của nó càng nặng nề bấy nhiêu; và bởi vì bị chất nặng bởi trọng lượng này, cái trí của bạn không bao giờ được tự do. Bạn có lẽ nói về chính trị hay bất kỳ loại tự do nào, nhưng bạn như một cá thể không bao giờ thực sự được tự do để tìm ra cho chính bạn; luôn luôn bạn đang tuân theo – tuân theo một lý tưởng, tuân theo vị đạo sư hay người thầy nào đó, hay một mê tín vô lý nào đó.

Thế là, toàn sống của bạn bị vây bủa, bị giới hạn, bị kiềm hãm trong những ý tưởng nào đó; và sâu thẳm bên trong bạn có sợ hãi. Làm thế nào bạn có thể suy nghĩ một cách tự do nếu có sợ hãi? Đó là lý do tại sao nhận biết được tất cả những việc này là điều rất quan trọng. Nếu bạn thấy một con rắn và biết nó nguy hiểm bạn sẽ nhảy tránh, bạn không đến gần nó. Nhưng bạn không biết rằng bạn bị trói buộc trong một chuỗi của những bắt chước mà ngăn cản sự sáng tạo; bạn bị trói buộc trong chúng một cách không nhận biết được. Nhưng nếu bạn nhận biết được chúng, và nhận biết được chúng kiềm chế bạn như thế nào; nếu bạn nhận biết được sự kiện rằng bạn muốn bắt chước bởi vì bạn sợ hãi điều gì con người có lẽ nói, sợ hãi cha mẹ của bạn hay giáo viên của bạn, vậy thì bạn có thể quan sát những bắt chước này mà trong đó bạn bị trói buộc, bạn có thể thâm nhập chúng, bạn có thể học hành chúng như bạn học hành môn toán hay bất kỳ môn học nào khác.

Liệu bạn nhận biết được, ví dụ, tại sao bạn đối xử với phụ nữ khác biệt với đàn ông? Tại sao bạn đối xử với phụ nữ một cách khinh miệt? Ít ra con người thường làm như thế. Tại sao bạn đi đến một ngôi đền, tại sao bạn thực hiện những nghi thức thờ cúng, tại sao bạn theo sau một đạo sư?

Bạn biết, đầu tiên bạn phải nhận biết được tất cả những việc này, và sau đó bạn có thể thâm nhập chúng, bạn có thể dò dẫm, học hành chúng; nhưng nếu bạn chấp nhận mọi thứ một cách mù quáng bởi vì suốt ba mươi thế kỷ vừa qua nó đã là như thế, vậy thì nó không có ý nghĩa, đúng chứ? Chắc chắn, trong thế giới điều gì chúng ta cần không phải là nhiều người bắt chước hơn, không phải là nhiều người lãnh đạo hơn và nhiều người theo sau hơn. Lúc này, điều gì chúng ta cần là những cá thể giống như bạn và tôi mà đang bắt đầu thâm nhập tất cả những vấn đề này, không phải một cách hời hợt hay ngẫu nhiên, nhưng thâm nhập sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn để cho cái trí được tự do để sáng tạo, được tự do để suy nghĩ, được tự do để thương yêu.

Giáo dục là một cách để khám phá sự liên hệ thực sự của chúng ta với những con người khác, và với thiên nhiên. Nhưng cái trí tạo ra những ý tưởng, và những ý tưởng này trở thành quá mạnh mẽ, quá chi phối, đến độ chúng ngăn cản chúng ta không nhìn vượt khỏi. Chừng nào còn có sợ hãi, vẫn còn có sự tuân theo truyền thống; chừng nào còn có sợ hãi, vẫn còn có bắt chước. Một cái trí chỉ bắt chước là máy móc, đúng chứ? Nó giống như một cái máy trong sự vận hành của nó; nó không là sáng tạo, nó không hiểu rõ những vấn đề. Nó có lẽ tạo ra những hành động nào đó, sản sinh những kết quả nào đó, nhưng nó không là sáng tạo.

Lúc này, điều gì tất cả chúng ta nên làm – bạn và tôi cũng như những giáo viên, những hiệu trưởng, những người uy quyền – là cùng nhau thâm nhập vào tất cả những vấn đề này, để cho khi các bạn rời đây các bạn sẽ là những cá thể chín chắn, có thể hiểu rõ những vấn đề cho chính các bạn, và sẽ không phụ thuộc vào sự dốt nát thuộc truyền thống nào đó. Vậy là bạn sẽ có sự cao quý của một con người thực sự tự do. Đólà toàn ý định của giáo dục – không chỉ chuẩn bị cho bạn để vượt qua những kỳ thi nào đó và sau đó chuyển hướng hết phần còn lại thuộc sống của bạn vào cái gì đó mà bạn không thương yêu làm, giống như trở thành một luật sư, hay một thư ký, hay một người nội trợ, hay một cái máy sinh sản. Bạn nên kiên định trong loại giáo dục mà khuyến khích bạn suy nghĩ một cách tự do không sợ hãi, mà giúp đỡ bạn thâm nhập, hiểu rõ; bạn nên đòi hỏi nó từ những giáo viên của bạn. Ngược lại, sống là một lãng phí, đúng chứ? Bạn được ‘giáo dục’, bạn vượt qua những kỳ thi cử nhân hay cao học, bạn có một việc làm mà bạn không ưa thích nhưng bởi vì bạn phải kiếm tiền; bạn lập gia đình và có con cái – và bạn đó kìa, bị kẹt cứng suốt phần còn lại thuộc sống của bạn. Bạn bị đau khổ, không hạnh phúc, cãi cọ; bạn không còn gì để mong ngóng ngoại trừ nhiều con cái hơn, nhiều nghèo khó hơn, nhiều đau khổ hơn. Bạn gọi điều nàylà giáo dục? Chắc chắn, giáo dục phải giúp đỡ bạn thật thông minh để cho bạn có thể làm việc gì bạn ưa thích làm, và không bị kẹt cứng trong cái gì đó xuẩn ngốc mà khiến cho bạn bị đau khổ suốt phần còn lại thuộc sống của bạn.

Vì vậy, trong khi bạn còn trẻ bạn nên thức dậy bên trong chính bạn ngọn lửa của bất mãn; bạn nên ở trong một trạng thái của cách mạng. Đây là thời gian để thâm nhập, để khám phá, để phát triển; vì vậy hãy đòi hỏi cha mẹ và những giáo viên của bạn giáo dục bạn một cách đúng đắn. Đừng thỏa mãn khi chỉ ngồi trong một lớp học ngấu nghiến thông tin về vị vua này hay chiến tranh kia. Hãy bất mãn, gặp gỡ những giáo viên của bạn và thâm nhập, tìm ra. Nếu họ không thông minh, bằng cách thâm nhập bạn sẽ giúp đỡ họ thông minh; và khi bạn rời ngôi trường này bạn sẽ lớn lên trong sự chín chắn, trong tự do thực sự. Vậy là bạn sẽ tiếp tục học hành suốt sống còn lại của bạn cho đến khi bạn chết, và bạn sẽ là một con người thông minh, hạnh phúc.

Người hỏi: Làm thế nào chúng tôi có được thói quen của không sợ hãi?

Krishnamurti: Hãy quan sát những từ ngữ bạn đã sử dụng. ‘Thói quen’ hàm ý một chuyển động được lặp đi và lặp lại. Nếu bạn làm việc gì đó lặp đi và lặp lại, liệu điều đó đảm bảo bất kỳ điều gì khác ngoại trừ sự đơn điệu? Liệu không-sợ hãi là một thói quen? Chắc chắn, không-sợ hãi chỉ hiện diện khi bạn gặp gỡ những biến cố của sống và hiểu rõ chúng, khi bạn có thể thấy chúng và thâm nhập chúng, nhưng không phải bằng một cái trí kiệt sức mà bị trói buộc trong thói quen.

Nếu bạn làm việc gì đó đều đặn, nếu bạn sống trong những thói quen, vậy thì bạn chỉ là một cái máy lặp lại. Thói quen là sự lặp lại, một cách không suy nghĩ đang làm cùng sự việc lặp đi và lặp lại, mà là một qui trình của dựng lên một bức tường quanh chính bạn. Nếu bạn đã dựng lên một bức tường quanh chính bạn qua thói quen nào đó, bạn không được tự do khỏi sợ hãi, và do bởi sống bên trong bức tường mới khiến cho bạn sợ hãi. Khi bạn có thông minh để nhìn ngắm mọi thứ xảy ra trong sống, mà có nghĩa thâm nhập mọi vấn đề, mọi biến cố, mọi suy nghĩ và cảm xúc, mọi phản ứng – chỉ lúc đó mới có tự do khỏi sự sợ hãi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11774)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12241)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15126)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11983)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16837)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12647)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7876)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20280)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11727)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9189)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567